Trương Ái Linh, tính ra cũng có tám căn nhà, hoa viên kiểu Tây và lượng
lớn ruộng đất ở An Huy, Hà Bắc, Thiên Tân.
Sênh ca tuy đã dứt, âm vang vọng sân nhà. Ánh đèn kia thắp sáng, tiến
khách xuống lầu xa. Lịch sử giống như một vở kịch đã tàn, nhưng sự phồn
hoa huyên nào và khí thế ngút trời đó vẫn còn vang vọng hồi lâu trong đêm
tối của thời đại, không chịu lùi xa. Chiến tranh Giáp Ngọ[3] nổ ra, thủy
quân Bắc Dương lại vấp phải thất bại, đế quốc Đại Thanh buộc phải ký
“Hiệp ước Mã Quan” nhục nhã. Lý Hồng Chương vì thế mà trở thành tội đồ
của dân tộc, cửa nhà tan nát. Không lâu sau, Lý Hồng Chương chết đi trong
nỗi đau đớn hồn phách không tiêu tan được. Trong khi đó, Trương Bội
Luân càng trở nên tồi tệ, uống rượu giải sầu, sống hết đời tàn.
[3] Là cuộc chiến tranh giữa Đại Thanh và Đế quốc Nhật Bản, diễn ra từ
1894 đến 1895, đánh mốc sự suy yếu của nhà Thanh và chứng tỏ sự thành
công của quá trình hiện đại hóa do công cuộc Minh Trị duy tân mang lại so
với Phong trào Dương Vụ ở Trung Quốc.
Sau khi Lý Hồng Chương chết được một năm, Trương Bội Luân cũng u
uất mà chết. Ông bỏ lại cho người vợ yêu một đứa con trai và một đứa con
gái, con trai chính là cha của Trương Ái Linh – Trương Đình Trọng, con gái
là người cô mà Trương Ái Linh luôn yêu quý – Trương Mậu Uyên. Một gia
tộc phồn hoa nay sa sút, đã mang đến cho họ một cảm giác bi thương khó
có thể nói thành lời. Cho dù gia tài đồ sộ mà tiền triều để lại vẫn có thể giúp
họ sống một cuộc sống cơm no áo ấm, nhưng rốt cuộc cũng sẽ có một ngày
miệng ăn núi lở. Tình hình này tựa như ánh chiều tà ngắn ngủi rơi rớt trước
khi mặt trời lặn, mang một vẻ mặt tráng lệ và tiếc nuối không thể níu kéo
nổi.
Trong những năm đầu thời Dân Quốc, những gia đình quý tộc sa sút như
thế nhiều không đếm xuể. Từ cảnh tượng huy hoàng khách khứa tấp nập,
trong chớp mắt rơi vào xó xỉnh không người hỏi đến. Có người lòng đầy
oán thán, có người say mềm rồi chết trong mộng, có người sợ hãi bất an,