Liệu kẻ kém may mắn đó, liệu kẻ đó có thể ở cùng chúng ta một thời gian
được không?”
Cuối cùng ngài mục sư cũng chịu ngẩng lên nhìn tôi. “Opal, con đang
nói về cái gì vậy?”
“Con tìm thấy một con chó,” tôi rụt rè. “Và con muốn được giữ nó.”
“Không chó,” ngài mục sư dứt khoát. “Chúng ta đã nói về chuyện đó
trước đây rồi. Con không cần một con chó.”
“Con biết,” tôi tha thiết. “Con biết con không cần một con chó. Nhưng
con chó này cần con. Cha nhìn này,” tôi nói. Tôi bước ra cửa xe moóc và gọi
lớn, “Winn-Dixie!”
Tai của Winn-Dixie liền dựng đứng lên trong không khí, nó nhe răng ra
cười và lại hắt hơi. Sau đó nó tập tễnh đi lên bậc cầu thang vào trong xe
moóc, dụi đầu ngay vào lòng ngài mục sư, đè người lên đống giấy tờ. Ngài
mục sư nhìn Winn-Dixie. Ông nhìn những cái xương sườn, bộ lông bù xù
và những mảng trụi của nó. Ông khẽ nhăn mũi. Như tôi đã nói, con chó có
mùi khá tệ.
Winn-Dixie ngước nhìn ngài mục sư. Nó kéo vành môi ra sau, khoe ngài
mục sư cả hàm răng khấp khểnh đã ngả màu vàng, vẫy đuôi rối rít làm rơi
vài tờ giấy của ông xuống đất. Rồi nó hắt hơi, và lại khiến thêm một vài tờ
giấy nữa bay ra khỏi bàn.
“Con gọi con chó là gì?” ông hỏi lại.
“Winn-Dixie,” tôi lí nhí. Tôi không đủ can đảm nói rõ ràng. Tôi có thể
thấy Winn-Dixie đã có ảnh hưởng tốt lên ngài mục sư. Ít nhất nó cũng
khiến ông chui ra khỏi cái mai của mình.
“Hừm,” ông nói. “Nó là một con chó đi lạc nếu đúng như những gì ta
thấy.” Ông bỏ bút chì xuống và khẽ gãi tai Winn-Dixie. “Cũng là một kẻ kém