và New Zealand năm 1962, vào Đức năm 1964, vào Ý, Tây Ban Nha và
Trung Mỹ năm 1965. Ông đi công du nước ngoài nhiều, và nổi tiếng với biệt
danh “Chủ tịch bay”. Bickmore cũng thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, tấn
công sang lĩnh vực thực phẩm đông lạnh, và đưa công ty trở thành nhà sản
xuất rèm che phòng tắm lớn nhất trên thế giới. Ông còn tham gia thị trường
thảm trải nhà và thị trường đồ chơi. Ông mua một công ty có tên J. B.
Williams chuyên sản xuất các sản phẩm vệ sinh cá nhân và làm đẹp như kem
dưỡng sau cạo râu Aqua Velva và thực phẩm bổ dưỡng Geritol.
Tất cả đều thất bại: hoạt động kinh doanh ở thị trường nước ngoài, rèm
che phòng tắm và đồ chơi. Để bù đắp cho những thua lỗ đó, Bickmore siết
chặt quản lý các bộ phận sản xuất bánh quy Nabisco đến từng xu lợi nhuận.
Trên thực tế, ông ta chi tiêu eo hẹp đến mức chúng gần như sụp đổ. Các tiệm
bánh thời Coppers đã xuống cấp nghiêm trọng, và Nabisco không có đủ lợi
nhuận để hiện đại hóa hoặc thay thế chúng. Ngay cả sau khi Bickmore nghỉ
hưu vào năm 1973, chúng hầu như vẫn giữ nguyên hiện trạng. Vào những
năm 1970, Nabisco được chèo lái bởi những người hiền lành, chậm chạp.
Lớp lãnh đạo này cổ vũ một nền văn hóa công ty tôn vinh quá khứ huy
hoàng. Họ đều là các lãnh đạo tốt, nhưng không phải là những người chịu
thay đổi. Như một trong những giám đốc điều hành phụ trách quảng cáo của
công ty nói: “Làm sao lại có một người khiến Oreo nổi tiếng đến vậy?”
Nabisco rơi vào tình trạng đình trệ. Không ai bị sa thải. Cũng không ai
làm việc quá 5 giờ chiều. Không có ai lên tiếng. Không ai, kể cả Giám đốc
Điều hành mới, Bob Schaeberle, có một văn phòng làm việc đúng nghĩa.
Không ai, kể cả Schaeberle, có xe công ty hoặc là thành viên câu lạc bộ thể
thao ngoài trời trên danh nghĩa công ty. Rồi Ross Johnson xuất hiện. Và như
người ta đồn đại, đó là sự sáp nhập của băng đảng đua mô tô khét tiếng
Hell’s Angels với một tổ chức nghề nghiệp vì cộng đồng.
-