duyên dáng và cất tiếng chào với giọng êm áo không còn một chút gì dấu vết
của tên vô lại gớm guốc vừa lang thang trên sân ga, ngoài chiếc vali vải cũ rích
ông ta kéo lê bằng hai cái quai sắp đứt tung.
Ông ta đặt vali lên giá hàng hết sức thận trọng vẻ xấu xí, tồi tàn của nó nổi
bật lên giữa đống túi nguyên lành bọc vải, và chiếc vali chấm phá những bông
hoa vàng trên nền đỏ thẫm.
Hết sức thoải mái, ông ngỏ lời khen ngợi tấm áo choàng màu nâu nhạt của
bà Mactanh.
- Xin hai bà thứ lỗi – Ông ta nói thêm – tôi chỉ sợ nhỡ tàu. Sáng nay, tôi đi
dự lễ buổi sáu giờ ở giáo khu Xanh-Xêvơranh, trong giáo đường Đức bà, dưới
những cây cột kỳ quặc cao vút với những hình thù xấu xí chẳng khác chúng ta,
những kẻ tội lỗi đáng thương.
- Thế hôm nay. – bà Mactanh hỏi – ông là người kinh tín hay sao?
Rồi bà hỏi thêm ông ta có mang theo sợi dây của hội thánh không.
Ông tỏ vẻ nghiêm trang và rầu rĩ:
- Thưa bà, tôi e về vấn đề này Pôn Venx đã bịa ra nhiều điều dối trá phi lý.
Người ta bảo tôi là hắn rêu rao sợi dây chuông, và là thứ chuông như thế nào
nữa kia! Tôi rất phiền lòng nếu người ta bị đánh lừa, dù chỉ trong chốc lát, bởi
những trò bày đặt khốn nạn đến thế. Thưa bà, sợi dây đơn sơ người ta mang
trong người sau khi một người nghèo khổ sờ tay vào, để muốn nói tằng nghèo
đói là thiêng liêng, nghèo đói sẽ cứu thoát trần thế… Trong nghèo đói, chỉ có
điều tốt lành mà thôi; và từ khi tôi nhận tiền nhuận bút tập Lê Biăngđixơ, tôi
cảm thấy mình trở nên bất công và khắc nghiệt. Tôi cần nói là tôi đã bỏ vào
trong túi xách một vài sợi dây thần bí ấy