Tuy nhiên nói như vậy không phải là bảo rằng đêm đêm Mệ Hoát hiện
lên không năng nói chuyện với tôi. Tất cả chuyện của mệ, y như buổi ban
đầu, tôi nghe mà không hiểu gì hết, nhưng vì thấy tôi gật đầu, ra vẻ hiểu
biết và tán đồng, mệ cứ nói, cứ nói để cho mệ hiểu một mình.
Phương Thảo thì trái hẳn. Tính từ đêm tôi thấy lần đầu,nàng chỉ nói có
ba câu ngắn ngủi không rõ ràng, y như thể một người bị nghẹn ngào, tức
tưởi, nhưng mùi thơm tiết từ thân thể trong suốt của nàng lúc nào cũng tỏa
ra ngạt ngào mà hình như mỗi đêm lại ngào ngạt mê li hơn một chút.
Mỗi đêm, tôi ngồi viết, nhưng ít khi viết được thành văn, mà ví có thành
văn đi nữa cũng chẳng có hay ho gì. Trái lại, mỗi đêm, tôi lại được chiếm
ngưỡng đôi mắt, nụ cười của Phương Thảo, đôi mắt nụ cười mà tôi dám hy
sinh tất cả ở trên đời này để đổi lấy – dù chỉ trong giây phút. Quả đến lúc
bây giờ tôi mới hiểu tại sao trên đời này bao nhiêu công hầu khanh tướng,
bao nhiêu liệt sĩ, trung thần, bao nhiêu danh nhân, cao sĩ, lại có thể hy sinh
công danh, phú quí vì một đôi mắt, vì một miệng cười tươi, mà khi chỉ có
một nét nhăn trên mặt, một lời nói đong đưa, nhõng nhẽo, một giọt lệ chảy
trên gò má thương thương.
Không Ông Ômya, ông phải thành thật thú nhận với tôi rằng chiến đấu
cho một lý tưởng, cho một chủ nghĩa, cho một dòng họ, nhiều khi cũng say
sưa hấp dẫn, nhưng sống theo tôi lúc bấy giờ, hàng đêm chung sống với
những cái bóng ma hiền lành tử tế không bao giờ hại tôi mà lại phù hộ cho
tôi, đời sống như thế còn thi vị, mặn mà và còn đẹp đẽ hơn cả đời sống thực
tế rất nhiều, phải không ông?
Một tháng, hai tháng trôi qua, tôi thấy không cần phải dấu diếm gắt gao
như những buổi ban đầu nữa.
Trong những lúc ngà ngà chén rượu, lâng lâng trong lòng tôi đem câu
chuyện ấy ra tâm sự với vài ba bạn nhậu. Không một người nào tin cả. Tôi
mời họ một hôm nào đó đến nghỉ đêm ở nhà tôi để xem tôi đặt điều hay nói
thực thì người nào cũng tìm cớ khước từ, riêng tôi có một người ưng chịu.