Vào lúc trưa muộn, tôi đã tin rằng Mal đã bị nhận diện và bắt giữ. Khi tôi
nghe thấy tiếng bước chân và nhìn thấy dáng hình thân quen của cậu ấy
bước ra từ phía rừng cây, tôi suýt nữa đã khóc nấc lên vì nhẹ nhõm.
Có rắc rối gì không? Tôi run rẩy hỏi, cố che giẫu nỗi sợ hãi của mình.
“Không,” cậu ấy nói. “Mình chưa bao giờ nhìn thấy một thành phố đông
dân cư đến vậy. Không ai buồn nhìn đến mình lần thứ hai.”
Cậu ấy mặc áo sơ mi mới và một chiếc áo choàng chật ních, trên tay là
một đống quần áo dành cho tôi: một bộ váy kiểu áo choàng có sắc đỏ nhạt
đến mức gần giống màu cam cùng một chiếc áo khoác có màu vàng chanh.
Cậu ấy đưa chúng cho tôi và lịch sự quay đầu lại để tôi có thể thay đồ.
Tôi lóng ngóng cởi từng nút áo nhỏ tí màu đen của bộ kefta. Dường như
có đến một ngàn nút. Tôi cảm thấy mình vừa thoát khỏi một gánh nặng to
lớn khi bộ áo bằng lụa cuối cùng cũng trượt khỏi vai và nằm yên vị dưới
chân. Khí trời mát lạnh của mùa xuân trên làn da trần khiến tôi rùng mình
và, lần đầu tiên tôi dám hy vọng rằng có thể chúng tôi đã thật sự tự do. Tôi
bác bỏ ý nghĩ ấy. Tôi sẽ không bao giờ có thể yên lòng chừng nào chưa biết
rằng Hắc Y thật sự đã chết.
Tôi tròng vào người bộ váy bằng lông cừu thô và áo khoác màu vàng
chanh.
“Có phải bồ cố ý mua những quần áo xấu xí nhất có thể tìm được không?”
Mal quay sang nhìn tôi và không thể nén cười.
“Mình đã mua những quần áo có thể tìm được đầu tiên,” cậu ấy nói. Rồi
nụ cười của cậu ấy nhạt dần. Cậu ấy khẽ chạm vào má tôi, và rồi khi cất
tiếng lần nữa, âm giọng của cậu ấy trầm thấp và khô khan. “Mình không bao
giờ muốn nhìn thấy bồ mặc đồ đen nữa.”
Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu ấy. “Không bao giờ,” tôi thì thầm.
Cậu ấy đút tay vào túi áo khoác và lôi ra một chiếc khăn choàng dài màu
đỏ. Một cách dịu dàng, cậu ấy quấn nó quanh cổ tôi, giấu đi chiếc vòng cổ
của con hươu Morozova. “Được rồi,” cậu ấy nói và mỉm cười lần nữa.
“Hoàn hảo.”
“Mình phải làm gì khi mùa hè đến đây?” tôi cười to.