anh lại là chuyện khác, anh đã cứu tôi, anh vào đi!
Anh ẩy cửa. Cái lán của anh gồm hai phòng, cứ cho là hai phòng đi, hai cái
hộp bằng ván ghép, một bề hai mét, một bề ba mét ở một phía, còn phía kia
là bếp nấu với một chiếc bàn mà trên mặt để bề bộn những bát đĩa lổn
nhổn, một chiếc tủ bằng gỗ mộc và một cái chảo cũ ba chân như người ta
thường thấy ngày xưa ở nông thôn. Gămbađu nói:
- Anh ngồi xuống đi! Tôi thay quần áo một lát rồi tôi trở lại.
Nhân khi Gămbađu đi ra, Ti-đu đảo mắt một lượt qua mớ đồ đạc linh tinh,
lỉnh kỉnh không có trật tự đó, thế nhưng cậu cũng nhận ra là gian phòng
không đến nỗi quá bẩn thỉu, chắc đôi khi anh ta cũng có đưa qua vài lát
chổi để quét tước.
Khi anh trở lại, râu tóc vẫn bù xù, bàm xoàm, nhưng quần áo đã thay khô
ráo. Với một thái độ lo lắng, anh cất tiếng hỏi:
- Anh làm gì ở bờ hồ mà sớm thế?
- Tôi có thói quen dậy sớm, rồi dắt chó đi dạo. Anh đã nhiều lần dơ gậy lên
dọa nó nhưng cái đó không ngăn cấm được nó bơi ra cứu anh đấy. May mà
nó bơi ra kịp.
Người đàn ông có tật đi cà nhắc đó nhìn con chó, đánh bạo xoa nó. Ka-phi
ngọ nguậy cái đuôi. Gămbađu mỉm cười, một nụ cười ngập ngừng, bẻn lẻn
làm sáng lên khuôn mặt xấu xí của anh. Rồi vầng trán của anh tự nhiên xẩm
lại, trở nên rầu rĩ. Anh hỏi:
- Các anh làm gì ở Mô-bơ-rắc, anh và các bạn anh? Ở đó làm gì mà bơi lội
dược?
- Chúng tôi đi dạo núi với nhau, không được hay sao?
- Chỉ có thế thôi à?... Có lẽ các anh chờ cho cái vũng hoàn toàn khô nước
chứ gì?
- Nói thật với anh là có như thế, chúng tôi mới có dịp thấy được những tàn
tích của làng xóm cũ chôn sâu dưới nước.
- Các anh tìm cái gì ở đó?
- Chẳng tìm gì cả, thành thực mà nói chỉ xem thôi.
- Anh có biết hai người đàn ông nghỉ trọ ở quán ăn không?
- Chúng tôi gặp họ những khi chúng tôi dùng bữa ở đó.