tâm đến làng Mô-bơ-rắc cũ. Cơn giông sắp đến, anh về đi kẻo ướt hết.
Gămbađu lắc đầu, nhất quyết không rời chỗ này. Ti-đu lại nói:
- Không chịu về thì ít ra anh cũng phải vào trú dưới cái vòm của hầm cũ
chứ và phải im lặng đề phòng có ai đến chỗ đổ nát này. Anh hiểu chứ?
Lời nói dứt khoát, Gămbađu nghe theo. Anh từ từ đứng lên, chân tay tê
cóng, lần đến ẩn dưới cái vòm.
Ti-đu lại rút cần ăng-ten máy bộ đàm:
- Alô! Ma-đi!
- Alô! Ti-đu. Tôi nghe đây.
- Tớ vừa thấy Gămbađu nằm nơi đổ nát, anh ấy quyết định không chịu rời
nhà cũ của mình. Trên đó có gì không?
- Vẫn chẳng có gì. Không ai ra khỏi quán ăn. Tất cả ánh đèn đã tắt hết. Bọn
mình tiếp tục canh chừng. Nếu có kẻ nào xuất hiện thì chắc phải muộn hơn,
phải đến nửa đêm trở đi cơ.
- Được! Thôi nhé! Sẽ gặp lại sau.
Ti-đu suy nghĩ, cậu quyết định rời khỏi làng cũ cùng với con chó, đi xuống
sâu hơn trong thung lũng cũ. Dần dần mắt cậu đã quen với bóng tối. Cậu
phân biệt được lờ mờ những bờ rào của ruộng vườn, những khối đen đen
của các trại cách biệt, đổ nát thành những đống gạch đá. Cậu đi loanh
quanh như vậy thêm một kilômét nữa, nhưng con Ka-phi không lúc nào báo
động cả.
Đến hơn một giờ, cậu lại liên lạc với Ma-đi:
- Alô! Ma-đi.
- Alô! Ti-du, tôi nghe đây nhưng bé quá. Cậu ở đâu đấy?
- Ở gần đáy hồ đây, chỗ mà con sông Xê-unl chảy vào. Tất cả đều yên tĩnh.
Còn trên kia thế nào?
- Đây cũng vậy. Bít-xtếck và Nha-phơ-rông vẫn chờ gần chỗ tớ. La Ghiơ
vừa chạy về đây nói rằng ông họa sĩ đang ngủ, rống to như bò dưới cái tăng
của ông. Cậu ấy cũng đã trở lại đó ngay để canh chừng.
- Mình sẽ quay lại qua làng cũ để "thám hiểm" ở đầu kia của hồ, gần cái
đập ấy. Thôi nhé!
Ti-đu gập ăng ten và quay đằng sau, ra hiệu con chó chú ý mọi tiếng động.