người nghỉ ngơi, chơi đùa vui thú trong một khung cảnh tuyệt đẹp, trải ra
một vùng rộng lớn trên bờ sông Mandanaret.
Khi Hoàng đế Saclơ III qua đời vào năm 1788, vua Saclơ đệ tứ kế vị liền
thăng nhiệm cho Gôya với danh hiệu tôn quí Họa sĩ của Triều đình. Song,
khi đã đạt tới đỉnh cao trên đường sự nghiệp, nhà họa sĩ tài năng bỗng mắc
một chứng bệnh bí hiểm. Người đương thời đồn đại rằng anh bị cảm nhiễm
khi một mình gắng sửa cái trục xe ngựa bị hỏng trong cái đêm anh trốn đi
cùng với nàng Công tước Anbơ. Kết quả anh bị bệnh điếc cả hai tai, di
chứng của cái lần ốm vì cảm nhiễm ấy, không tài nào chữa khỏi. Cái bệnh
quái ác đã dựng một bức tường ngăn cách, giữa anh, một nghệ sĩ tính tình
vui trẻ sảng khoái vốn sống rất lịch thiệp chan hòa cởi mờ, với thế giới bên
ngoài.
Mối tình bất tử giữa anh với nàng Công tước là một niềm an ủi đền bù lại
sự thiệt thòi nặng nề do cái tật nguyền tai ác đã làm cho tính tình anh trở
nên gay gắt, thúc đẩy anh vẽ những cảnh tượng khủng khiếp và tuyệt vọng.
Anh đã vẽ nhiều chân dung của nàng Công tước mà những đường nét cân
đối của cơ thể làm nổi bật hẳn bản sắc riêng con người và có ý nghĩa truyền
cảm hơn cả vẻ tươi đẹp của nàng.
Trong bức chân dung, nay còn để ở Viện bảo tàng Mađrit, bàn tay phải
của nàng Công tước chỉ vào một tấm đá mang tên Gôya, còn bức chân dung
nàng Công tước hiện được giữ ở Nữu Ước, nàng Công tước đeo hai cái
nhẫn, một cái mặt nhẫn có khắc chữ “Anbơ” cái kia chữ “Gôya”, chàng họa
sĩ đa tình đã biểu thị sự gắn bó của anh đối với nàng Công tước như vậy.
Năm 1802, nàng Công tước bị chết một cách đột ngột và bí mật. Theo lời
đồn đại thì nàng bị đầu độc, nhưng vì sao? và do ai? Chẳng bao giờ Gôya
nguôi khuây được nỗi đau buồn ấy, mặc dầu trong suốt cuộc đời của người
đàn bà trẻ đẹp, anh luôn kết tội nàng về lòng không chung thủy, sự dối trá,
phản bội và nhiều chuyện mờ ám xấu xa khác. Về những điều đó, người ta
có thể thấy cái tâm trạng u uất đầy mâu thuẫn của anh đã thể hiện trong một
số tranh vẽ ký họa và biếm họa của anh.