khá xa đã nghe thấy tiếng cười của các cô gái, nghe rõ tiếng máy hát nỉ
non, ngửi thấy cả mùi thịt nấu và đậu hầm.Tôi ngồi ở sảnh lớn dưới nhà,
không muốn ăn gì, mà cũng không muốn động đến người cô gái đang ngồi
trong lòng tôi.Tôi cảm thấy trong không khí cũng có mùi bệnh giang mai.
Ngồi trong lòng tôi là cô gái sạch, nghe bà chủ kể những chuyện buồn cười
của các Thổ ti. Ngay cả cô gái dưới trướng bà ta nghe lại câu chuyện xảy ra
trên người chính các cô, các cô cũng phải bật cười, nhưng tôi không thấy có
gì đáng cười.
Tôi hỏi bà chủ chứa về chuyện người Hán có màu, bà ta cười, nói "Có màu
hay không có màu, màu đỏ hay màu trắng đến chỗ tôi đều như nhau cả". Bà
ta nhổ xuống đất "Ôi, đàn ông cùng một giuộc, trừ phi người như cậu".
"Cậu thế nào?"
Bà ta lấy một mẩu thịt từ kẽ răng ra, vứt đi, rồi nói "Giống như cậu, như
ngốc mà không ngốc, tôi chả biết thế nào nữa". Bà ta nói cứ như đã gặp
người Hán có màu rồi. Ôi, người đàn bà gieo rắc bệnh giang mai!
Tôi ra khỏi cái ngôi nhà ăn chơi phóng đãng, nhổ nước bọt phì phì.
Một ngọn gió lặng lẽ từ xa thổi tới, tung bụi đất, giấy lộn, cỏ rác dọc phố
dưới nắng, nghe như tiếng cờ phần phật trước gió. Người đi đường vừa
tránh bụi, vừa nhổ xuống đất. Ai cũng bảo trong gió có ma. Ai cũng bảo
nước bọt là thứ rất độc, ma phải bỏ chạy. nhưng cơn lốc mỗi lúc một to,
cuối cùng mấy cô gái từ trong cái nhà lớn kia chạy ra, tốc váy ngay trước
gió, phơi những bông hoa độc ra ngoài, vậy là gió lốc giảm dần và mất hẳn.
Lòng tôi trống trải vô cùng, có thể vì không tìm thấy người Hán có màu,
nếu không, chỗ trống sẽ được lấp đầy.
Trong khi tôi đang nhìn xem cơn lốc cuốn đi đâu thì người nhà tìm gặp tôi.
Vợ tôi bỏ trốn, trốn đi với Thổ ti Uông Ba.
Thằng Trạch Lang dẫn đầu một tốp thuộc hạ lên ngựa, không chờ tôi ra
lệnh đã xuất phát. Đoàn ngựa như cơn lốc tràn qua. Họ đuổi theo về phía