và yên lặng tựa như thủy ngân. Đây không phải là nơi con người nên
bén mảng tới khi tối trời.
“Nào,” Becky nói, “giờ làm trò gì tiếp theo đây?”
Tôi nghĩ đến Charlie. “Em không biết nữa.” Tôi cảm nhận được
nước mắt chực trào ra nơi khóe mắt. Chúng tôi đã mất tới hai ngày trời
chỉ để đến nơi này. Chúng tôi đã mạo hiểm tính mạng ít nhất hai lần.
Lúc đó tôi cũng không biết mình sẽ tìm thấy gì khi đi đến đây. Nhưng
tôi hy vọng ít nhất mình cũng sẽ tìm được cái gì đó. Thế mà, hóa ra
đây là nơi trống trơn nhất tôi từng biết đến trong đời.
“Cố gắng lên,” Becky nói. “Nào đi làm bữa tối cái đã.”
Chúng tôi lê bước dọc theo bờ lạch, rồi nhún chân trên một dãy
những hòn đá giữa dòng để băng ngang qua, kiếm một chỗ cắm trại
bằng phẳng. Đang đi, chúng tôi tìm thấy một ngôi nhà tranh đổ nát,
trong giây lát nom như thể đó là manh mối cho chúng tôi biết tại sao
Coruisk lại quan trọng đến thế. Nhưng chỉ là một ngôi nhà bỏ hoang.
Bốn bức tường xập xệ, một lối vào cửa chính, hai lỗ cửa sổ, sàn nhà
bằng đất bùn. Chúng tôi trèo lên một thảm cỏ phẳng phiu, khuất hỏi
những cặp mắt dòm ngó và những ngọn gió ngày càng mạnh, sát bên
một tảng đá lớn hình bầu dục.
Becky dựng lều phía sau tảng đá lớn. Tôi lấy ra mấy cái băng cứu
thương, khăn khử trùng và thuốc Savlon để xử lý đầu gối với chiếc
mũi. Khi đã rúc vào túi ngủ, chúng tôi bẻ bánh mì và phô mai ra.
Bụng đã no và chân mỏi nhừ, chúng tôi nằm ngửa lên ngắm sao trời
qua nóc mở của chiếc lều. Becky bịt tai nghe iPod vào và đắm chìm
vào mấy cái ban nhạc Tử thi quỷ. Hoặc Chi hoại tử. Hoặc Chó con
ngoẻo. Hoặc bất kỳ cái lằng tà nhằng nào bà chị vừa mới tải xuống
gần đây.
Tôi cố nhớ xem tên của mấy chùm sao là gì. Đại hùng. Lưỡi cày.
Lạp hộ. Cuối cùng, tôi kéo khóa lều, kéo túi ngủ lên quanh cổ và nhắm
mắt lại.