thấy sự cần thiết của học vấn nữa cũng có.
Đã biết được nguyên nhân của nạn vô học ở thôn quê là có thể thay đổi
được tình cảnh đáng ngán ấy. Chúng tôi rất tin như vậy, nếu ta đem dùng hết
các phương pháp để khơi gợi lòng hiếu học của dân quê, khiến họ dễ dàng
được hưởng những điều hay của học vấn… Lúc họ coi học thức như một sự
cần yếu cho đời sống của họ, mà lúc ta đã đạt được chí nguyện rồi.
Không còn nghi ngờ gì nữa, giáo hóa dân quê là một công cuộc hệ
trọng, cần phải theo đuổi một cách sốt sắng, dựa vào một chương trình to tát.
Công cuộc ấy bắt đầu sớm ngày nào là lợi cho dân gian ngày ấy.
Ta hãy cứ tưởng tượng ra rằng công cuộc ấy đã bắt đầu rồi. Lẽ tất
nhiên, trước hết, cần phải giải quyết một vấn đề bấy lâu người ta thường nói
đến : là nên lấy thứ tiếng nào, tiếng Nam hay tiếng Pháp, làm lợi khí để dạy
dân.
Vấn đề này hằng năm làm sôi nổi dư luận. Đã có lần, cách đây không
lâu, một ông hội đồng quản hạt miền nam công nhiên tuyên bố rằng tiếng
Nam chỉ là một thổ ngữ, để dùng quanh quẩn trong câu chuyện nắng mưa.
Khi câu chuyện vọt lên trình độ cao hơn một chút, tiếng Nam đã không đủ
chữ nữa rồi khi ấy người ta sẽ lấy tiếng Pháp thay vào. Đã vậy, thì chỉ bằng
xếp quách thổ ngữ ấy vào một xó, bắt đầu học ngay tiếng Pháp cho khỏi mất
thời giờ. Ấy luận điệu của ông hội đồng ấy là thế. Ông không ngờ đã đồng ý
với nhiều nhà nho thuở-xưa, quá yêu chữ Hán nên đã cho nôm na là mách
qué.
Nhưng cái phương pháp Âu-hóa của ông hội đồng kia, và của bạn đồng
chí của ông ta, không nói đến phương diện ý tưởng nữa, chỉ đứng riêng về
mặt thực tế mà suy xét, cũng không sao thực hành được. Là vì đợi cả hai
mươi triệu người Nam nói được tiếng Pháp, thật chẳng khác gì đợi trái đất
dừng quay. Và, nói cho cùng chăng nữa, giá thử dùng phương pháp trong
vòng vài trăm năm, cho đến khi một phần mười dân Annam nói trôi chảy
được tiếng Pháp, còn chín phần nữa thì bập bẹ một thứ tiếng nửa tây nửa ta,
một thứ tiếng lai, dân tộc Việt-Nam khi ấy cũng không vinh dự gì.