- 240 -
Đại Đường Tây Vực Ký
Phía tây giáp với sông Mạc Ê. Cư dân sống đông đúc, nhà cửa tài sản
phong phú, lệ thuộc nước Phạt Lạp Tỳ. Đất đai khô cằn, hoa quả rất ít.
Mùa đông có gió thổi mạnh, phong tục thô sơ. Tánh tình nhẹ dạ. Chẳng
ham học tập nghề nghiệp. Dân chúng tà chánh đều tin. Có hơn 50 ngôi
Già Lam và hơn 3000 Tăng Sĩ tu theo Đại Thừa và Thượng Tọa Bộ. Có
hơn 100 ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Đất nước nầy
có bờ biển nằm về phía tây. Ai sống gần biển rất thuận lợi, để mua bán
trao đổi. Đi khỏi thành không xa mấy, có núi Hữu Thiện Đà. Trên đỉnh
có một ngôi Già Lam, phòng ốc hành lang đã hư hoại, cây cối suối chảy
giao nhau. Đây cũng là nơi thánh hiền lui tới dừng chân, cũng như các
tiên thánh qua lại tập hợp. Từ nước Phạt Lạp Tỳ đi về phía bắc hơn 1800
dặm, đến nước Cù Chiết La nằm phía tây biên giới Ấn Độ.
Nước Cù Chiết La có chu vi hơn 5000 dặm. Đô Thành hiệu là Tỳ La
Ma La có chu vi hơn 30 dặm. Đất đai phong tục giống như nước Tô Sắc
Đà. Cư dân sống phồn thịnh, nhà cửa giàu sang, vì có nhiều ngoại đạo
nên ít tin Phật Pháp. Chỉ có một ngôi Già Lam, và hơn 100 Tăng Sĩ tu
theo Tiểu Thừa Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Có 10 ngôi đền thờ. Ngoại
đạo sống hỗn tạp. Vua thuộc dòng Sát Đế Lợi. Khi tuổi còn nhỏ trí dũng
lại cao mưu, thâm tín Phật Pháp, nhưng đến khi cao tuổi luôn thay đổi
khác thường. Từ đây qua phía đông nam đi hơn 2800 dặm đến nước Ô
Phiệt Diễn Na thuộc miền nam Ấn Độ.
Nước Ô Phiệt Diễn Na có chu vi hơn 6000 dặm. Đô thành có chu vi
hơn 30 dặm. Đất đai phong tục giống như nước Tô Sắc Đà. Cư dân phồn
thịnh, nhà cửa giàu có. Có hơn 10 ngôi Già Lam, đa phần đã hư hoại, chỉ
còn lại năm ba ngôi và có hơn 300 Tăng Sĩ tu theo cả Đại Thừa và Tiểu
Thừa. Có hơn 10 ngôi đền thờ. Ngoại đạo hầu hết sống tạp nhạp. Vua
thuộc giai cấp Bà La Môn, thông suốt kinh điển ngoại đạo, không tin
Phật Pháp. Đi khỏi thành chẳng bao xa, có một Bảo Tháp là nơi mà Vua
A Dục làm nên một cái địa ngục. Từ đây đi về hướng đông bắc hơn 1000
dặm, đến nước Trịnh Chỉ Đà.
Nước Trịnh Chỉ Đà có chu vi hơn 4000 dặm. Đô Thành có chu vi 15
hay 16 dặm. Đất thấp nên cày cấy lúa thóc được mùa. Cũng có trồng
được lúa mạch và hoa quả. Khí hậu điều hòa, tánh tình người ở đây
thuần lương. Đa phần tin theo ngoại đạo, ít kính tín Phật Pháp. Có 10
ngôi Già Lam, rất ít chư tăng. Có khoảng 10 ngôi đền thờ, mà ngoại đạo
lên đến số ngàn.
Vua thuộc dòng dõi Bà La Môn, bài bác Tam Bảo, nhưng tôn trọng
đức cho nên các bậc học rộng hiểu nhiều đều vân tập nơi đây. Từ đây đi
về hướng bắc hơn 900 dặm, đến nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ La, nằm ở
miền trung Ấn Độ.