- Thưa các ông - Công tước lên tiếng, nói với tất cả mọi người, nhưng
không nhìn riêng ai cả. - Các ông biết chứ, hôm nay Verjembitxkaia được
mời đến nhà hát đấy.
- Đúng thế, đúng thế, nhất định rồi - Mấy người tranh nhau reo lên, rất
thích thú vì có dịp đáp lời công tước.
- Verjembitxkaia là một cô đào cừ khôi, hơn Xôpnhiakôvaia nhiều - Một
người gày còm, có ria mép, đeo kính, từ góc nhà nói vọng ra bằng một
giọng e é. - Khổ thân ông ta? Trong thâm tâm, ông ta rất buồn do
Xôpnhiakôvaia, vậy mà công tước không ban cho ông ta lấy một cái nhìn.
- Bô-ồi, ê bồi, cho ống điếu đây! - Một người cao lớn, mặt thanh tú, dáng
quí phái, chắc hẳn là một tay cờ gian bạc bịp, thốt lên, cái nơ cổ lồng bồng
che cả miệng.
Người bồi chạy đi lấy ống điếu, và lúc trở về, y trình với công tước là
người đánh xe trạm Baklaga xin gặp.
- A! Thế thì bảo anh ta đợi đấy và đem vôtka đến cho anh ta.
- Xin vâng.
Sau này, người ta kể với tôi rằng Baklaga là biệt hiệu của một tay đánh xe
ngựa trẻ tuổi, đẹp trai và được nuông chiều hết sức. Công tước yêu anh ta,
cho anh ta ngựa, đua ngựa với anh ta, thường cùng anh ta chơi bời suốt
đêm... Còn chính công tước - một người trước kia ngông cuồng và hoang
phí nổi tiếng - thế mà bây giờ có lẽ ta không nhận ra được nữa... ông ta xức
nước hoa thơm lừng, y phục gọn ghẽ và nom kiêu hãnh biết bao! Ông ta
chăm lo đến công vụ biết bao, và nhất là ông ta khôn khéo ghê!
Nhưng khói thuốc lá bắt đầu làm tôi cay mắt.
Sau khi nghe nốt câu nói cuối cùng của Khơlôpakôp và tiếng cười rộ của
công tước, tôi về phòng trọ của mình, ở đấy người hầu đã trải chỗ nằm cho
tôi trên chiếc đi văng nhồi lông, hẹp và lõm, có lưng tựa cao lum khum.
Hôm sau, tôi đi xem ngựa ở các sân nhà, bắt đầu từ chỗ để ngựa của
người lái buôn nổi tiếng Xitnhikôp. Tôi qua cửa rào vào cái sân rải cát.
Chính ông chủ đứng trước cửa chuồng ngựa mở toang. Đấy là một người