chạy từ sở giao dịch chứng khoán về phía đông-nam cũng vậy; mới đầu là những cửa hiệu
lộng lẫy vào hạng nhất và ở các tầng gác trên là các hãng buôn và kho hàng; tiếp theo (ở
Pích-ca-đi-ly) là những khách sạn và nhà kho khổng lồ; xa hơn nữa (khi tới đường Luân
Đôn) ở gần sông Mét-lốc và những công xưởng, những quán rượu và cửa hiệu phục vụ
những tầng lớp thấp nhất của giai cấp tư sản và công nhân; rồi dọc theo Ác-uých - Grin là
nhà cửa của bọn tư sản thượng đẳng và trung đẳng và từ chỗ đó trở đi là những vườn hoa lớn
và biệt thự của các chủ xưởng và nhà buôn giàu có nhất. Như vậy là khi đã hiểu biết Man-se-
xtơ người ta có thể lấy mấy phố lớn mà suy ra tình hình các khu tiếp giáp, nhưng rất ít khi từ
những phố lớn ấy có thể nhìn thấy được quang cảnh thật sự của chính các khu lao động.- Tôi
biết rất rõ rằng cách sắp xếp giả tạo ấy hoặc ít nhiều đều có tính chất đặc trưng cho tất cả các
thành phố lớn; tôi cũng biết rằng những người buôn bán lẻ do chính tính chất kinh doanh của
họ, bắt buộc phải ở trên những đường phố lớn, đông người qua lại; tôi biết rằng ở đây cũng
vậy, trong các phố ấy nhà tốt nhiều hơn là nhà xấu, và giá đất ở đây cao hơn ở các khu hẻo
lánh. Nhưng tôi chưa thấy ở đâu lại gạt bỏ một cách có hệ thống giai cấp công nhân ra khỏi
các phố lớn, lại che giấu hết sức chu đáo mọi cái có thể làm chướng tai gai mắt giai cấp tư
sản như ở Man-se-xtơ. Vậy mà chính Man-se-xtơ
lại ít được xây dựng theo kế hoạch định sẵn, hoặc theo quy định của cảnh sát, mà ngược lại,
phần lớn hình thành một cách ngẫu nhiên hơn bất cứ một thành phố nào khác. Khi tôi nghĩ
đến lời cam đoan nhiệt tâm của giai cấp tư sản nói rằng những người lao động sống trong
một tình cảnh hoàn toàn tốt đẹp, thì tôi thấy được rằng các chủ xưởng thuộc phái tự do,
những "big wigs"
1*
của Man-se-xtơ không phải là không tham gia vào sự quy hoạch thành
phố đáng xấu hổ ấy.
Tôi nói thêm một điều là hầu hết các công xưởng đều nằm dọc theo ba dòng sông và dọc
những con kênh chạy chằng chịt khắp thành phố, và bây giờ tôi chuyển sang mô tả ngay
chính các khu phố lao động. Trước hết là thành Man-se-xtơ cổ, nằm giữa giới tuyến phía bắc
của khu buôn bán và sông E-rơ-cơ. Phố xá ở đây, cả những phố tốt nhất như các phố Tốt,
Lông-Min-ghết, Uy-ti-Grốp và Sơ-đơ-Hin, đều quanh co, chật hẹp, nhà cửa bẩn thỉu, cũ kỹ,
đổ nát và các ngôi nhà trong các phố nhỏ thì hoàn toàn kinh tởm. Từ nhà thờ cũ đi dọc phố
Lông-Min-ghết, ta thấy ngay ở bên phải là một dãy nhà kiểu cổ không có một mặt nhà nào
còn đứng thẳng; đó là những tàn tích của thành phố Man-se-xtơ cũ, Man-se-xtơ thời kỳ chưa
có công nghiệp, cư dân cũ đã cùng con cháu họ rời sang những khu tốt hơn, bỏ lại những nhà
quá tồi đối với họ cho dân lao động trong đó có nhiều người Ai-rơ-len. Đây mới chính là một
khu lao động hầu như không che giấu, vì ngay các cửa hàng và tiệm rượu ở đường phố chính
cũng không ai buồn làm cho có vẻ sạch nữa. Nhưng đó cũng còn chưa thấm gì so với các ngõ
hẻm và các sân ở đằng sau mà muốn vào đấy phải qua những lối đi lợp kín chật hẹp đến nỗi
hai người không thể có đủ chỗ để tránh nhau. Thật khó mà tưởng tượng nổi cái đống nhà cửa
lộn xộn trái với mọi quy tắc kiến trúc hợp lý và