ra lệnh quét dọn và tẩy uế tất cả bằng clo; bác sĩ Cây, trong một cuốn sách nhỏ
1)
, đã mô tả
rùng rợn tình trạng sân này vào thời ấy. Từ đó hình như sân này đã được phá đi một phần nào
và xây dựng lại; ít ra từ trên cầu nhìn xuống vẫn còn thấy những bức tường đổ nát và những
đống rác lớn bên cạnh vài ngôi nhà mới xây. Cảnh tượng nhìn từ trên cầu xuống - một bức
tường đá cao bằng đầu người đã che kỹ cảnh tượng đó khuất mắt những người qua đường
người thấp - nói chung là tiêu biểu cho cảnh tượng toàn khu. Ở dưới cùng, con sông E-rơ-cơ
chảy, hoặc nói đúng hơn là đọng ở đó, một dòng sông hẹp, đen ngòm, hôi thối, đầy rác rưởi
và cặn bã mà nó đẩy dạt vào bên bờ thấp, tức bờ bên phải sông. Khi trời khô ráo, trên bờ này
còn lại một dãy dài những vũng bùn lầy xanh thẫm, hôi thối kinh tởm hết sức, từ đáy những
vũng bùn ấy sủi lên những bóng tăm khí độc xông lên một mùi hôi đến nỗi đứng trên cầu
cách mặt nước đến bốn, năm mươi phút cũng không chịu nổi. Thêm vào đó, bản thân dòng
sông cứ mỗi bước lại bị những đập
cao chặn lại, phía trên đập bùn nhớp và rác rưởi đọng lại thành khối lớp rồi thối rữa ra. Phía
trên cầu là các xưởng thuộc da, xa hơn nữa là các xưởng nhuộm, các xưởng bột xương và
xưởng khí đốt mà những nước thừa và vật cặn bã đều đổ ra sông E-rơ-cơ; con sông này còn
tiếp nhận thêm cả những đồ nhơ nhớp của các cống rãnh và hố xí ở xung quanh. Như vậy
người ta dễ mường tượng con sông ấy để lại những cặn lắng như thế nào. Phía dưới cầu,
người ta thấy những đống rác, những thứ nhơ nhớp, bẩn thỉu, những đống gạch ngói đổ nát
trong các sân ở bờ cao bên trái; nhà nọ nhô lên sau nhà kia và vì bờ sông cao dần, nên chỉ
thấy mỗi nhà được một phần; tất cả đều ám khói, tồi tàn, cũ kỹ, với những cửa sổ vỡ kính và
long khung; ở phía sau là những ngôi nhà cũ kỹ của các công xưởng, trông giống trại lính.
Trên bờ bên phải, thấp là một dãy dài nhà cửa và công xưởng. Tính từ ngoài vào thì ngôi nhà
thứ hai là một ngôi nhà đổ nát, không mái, đầy rác, còn ngôi nhà thứ ba xây thấp đến nỗi tầng
dưới không thể ở được và do đó chẳng có cửa sổ, cửa ra vào gì cả. Ở đây, phía sau là nghĩa
địa người nghèo, các ga của những đường xe lửa Li-vớc-pun và Lít-xơ, và sau nữa là nhà tế
bần "ngục Ba-xti của người nghèo" thành phố Man-se-xtơ, nó như một bức thành, từ trên
đỉnh đồi cao, sau những bức tường cao có hình răng cưa, đang nhìn xuống khu lao động ở bờ
sông bên kia như đe doạ.
Phía trên cầu Điu-xi, bờ bên trái thì thoai thoải và, ngược lại, bờ bên phải thì lại dốc đứng
hơn, nhưng tình hình nhà cửa ở hai bên bờ sông thì không khá hơn tí nào mà lại xấu đi. Ở
đây nếu người ta rời khỏi phố chính - vẫn là phố Lông-Min-ghết - mà đi về bên trái thì sẽ lạc
đường ngay; ra khỏi sân này thì lại đi vào sân kia, đi qua những xó xỉnh, những chỗ ngoặt,
những lối đi hẹp và bẩn, qua mấy phút thì mất hết phương hướng và không còn biết đi về
phía nào nữa. Đâu đâu cũng thấy những ngôi nhà đổ nát một phần hoặc hoàn toàn đổ nát, một
vài nhà thật sự không có người ở, và ở đây điều đó có nhiều ý nghĩa lắm; trong
nhà rất ít khi thấy nền nhà lát gỗ hoặc lát đá, nhưng ngược lại, hầu như ở chỗ nào cửa sổ và
cửa ra vào cũng hư nát, xộc xệch, và bẩn thỉu làm sao! Chỗ nào cũng có những đống rác rưởi,
đồ bẩn thỉu và vật bỏ đi, cũng có những vũng nước tù thay cho cống rãnh, và chỉ cái mùi hôi