trọng nhất của khủng hoảng, không cho máy chạy, hoặc chỉ làm việc "không hết thời gian",
nghĩa là chỉ cho làm việc khoảng nửa ngày chẳng hạn;
tiền lương giảm xuống do những người thất nghiệp cạnh tranh, do thời gian lao động rút ngắn
và vì không thể bán hàng hoá có lãi nữa; trong công nhân nạn nghèo khổ lan khắp; nếu người
nào đó có chút tiền dành dụm thì cũng hết ngay; các cơ quan từ thiện chật ních người; tiền
thuế trợ giúp người nghèo tăng gấp hai gấp ba mà vẫn không đủ; số người đói tăng lên và
bỗng nhiên khối lượng "nhân khẩu thừa" xuất hiện với con số khủng khiếp. Tình hình ấy kéo
dài một thời gian: những "con người thừa" cố xoay xở để mà sống, hoặc nếu không xoay xở
được thì chết; sự nghiệp từ thiện và các đạo luật về người nghèo giúp cho nhiều người kéo lê
thêm cuộc sống; một số khác xoay xở được việc làm trong những ngành lao động ít có cạnh
tranh hơn và cách xa với đại công nghiệp hơn, thì sống vất vưởng; mà để cho một con người
sống gượng được một thời gian thì có cần mấy tí đâu! - Dần dần, tình hình lại khá lên: những
hàng hoá dự trữ chất đống được tiêu thụ đi; tâm trạng chán nản phổ biến của các nhà buôn và
nhà công nghiệp làm cho số hàng hoá ấy không được bổ sung nhanh chóng; mãi cho đến khi,
rốt cuộc, giá hàng tăng lên và những tin tức thuận lợi từ mọi nơi đưa về lại thúc đẩy người ta
hoạt động mạnh mẽ. Nhưng phần lớn các thị trường đều ở rất xa; trong khi những chuyến
hàng mới chưa kịp tới nơi, thì nhu cầu vẫn cứ tăng mãi và giá cả cũng tăng theo; người ta
tranh nhau mua những hàng chở đến đầu tiên; những cuộc mua bán đầu tiên làm cho thị
trường càng nhộn nhịp lên; những chuyến hàng đến sau xem chừng còn được giá hơn nữa;
với hy vọng giá cả còn tăng lên, người ta bắt đầu đầu cơ tích trữ, và như vậy là những hàng
hoá định đưa ra tiêu thụ bị lấy cất đi đúng vào lúc thị trường đang cần nhất; đầu cơ làm cho
giá cả hàng cao, vì nó thúc đẩy những người khác mua hàng và rút những hàng mới đến ra
khỏi lưu thông; tất cả những tin tức ấy được truyền về Anh; các chủ xưởng lại bắt đầu hoạt
động mạnh, lại xây dựng những máy mới và tìm đủ mọi cách để lợi dụng cái thời cơ thuận
lợi ấy. Lúc đó ở đây cũng bắt đầu có đầu cơ, với những hậu quả y hệt như ở các thị trường
nước ngoài:
giá hàng tăng lên, hàng bị rút khỏi lưu thông, hai việc ấy đẩy sản xuất lên đến mức khẩn
trương cực độ; sau đó xuất hiện những kẻ đầu cơ "rỗng túi", bọn này dùng vốn ma, nhờ vào
tín dụng mà sống, và nếu không bán hàng lại được thực nhanh thì phá sản. Bọn họ lao vào
cuộc chạy đua tổng lực và hỗn loạn ấy để kiếm lợi nhuận, và lòng tham không đáy của chúng
càng làm cho tình hình thêm hỗn loạn và bận rộn, lòng tham ấy khiến chúng điên cuồng tăng
giá cả và mở rộng sản xuất. Cuộc chạy đua cuồng loạn đã bắt đầu ấy lôi kéo cả những người
điềm đạm nhất, giàu kinh nghiệm nhất; người ta bắt đầu rèn sắt, kéo sợi, dệt vải nhiều như là
phải trang bị lại cho toàn thể nhân loại, như là người ta vừa mới tìm ra một thị trường mới có
hàng mấy tỷ khách hàng ở một nơi nào đó trên mặt trăng. Đột nhiên một ngày kia bọn đầu cơ
rỗng túi ở nước ngoài vì cần tiền, bắt đầu bán hàng ra - dĩ nhiên là thấp hơn giá thị trường vì
gấp quá; một người bán ra, những người khác bán theo; giá cả bắt đầu bấp bênh, bọn đầu cơ,
sợ hãi tung hàng ra thị trường thị, trường trở nên hỗn loạn, tín dụng lung lay, hết hãng buôn