thì lại dùng máy để làm việc đó; hàng ngày máy chạy ầm ầm qua các phố, đã cướp mất
miếng bánh mì của những người thất nghiệp. Trên những con đường lớn dẫn đến các thành
phố, có ngựa xe đi lại nhiều, có thể thấy rất nhiều người đẩy xe ba gác liều mạng chen giữa
những xe ngựa và xe chở khách đang lao nhanh về các ngả, hốt lấy phân ngựa vừa mới ỉa để
đem bán. Nhiều khi để được làm việc ấy họ còn phải trả hàng tuần vài si-linh cho sở vệ sinh
đường phố và ở một số nơi việc ấy còn bị cấm, vì nếu không cấm thì sở ấy sẽ không thể bán
được thứ rác hốt được ở đấy làm phân bón vì trong đó có quá ít phân ngựa. Những "người
thừa" nào có thể kiếm được một chiếc xe ba gác để chở hàng đã là may mắn, nhưng nếu
ngoài chiếc xe ba gác ra, còn kiếm được đủ tiền mua một con lừa thì lại càng may mắn hơn;
con lừa phải tự kiếm ăn lấy, hoặc chỉ được người ta cho ít đồ thừa bỏ đi, nhưng dù sao nó vẫn
đem lại một ít thu nhập.
Phần đông những "người thừa" xoay ra bán hàng rong. Nhất là buổi tối thứ bảy, khi tất cả
dân lao động đều đổ ra đường phố, thì người ta có thể thấy số người sống bằng nghề ấy nhiều
đến mức nào. Vô số đàn ông, đàn bà và trẻ con tranh nhau rao bán dây giày, dây lưng, dải
băng, cam, bánh ngọt và đủ mọi thứ khác. Và ngay những ngày thường, lúc nào cũng có thể
gặp những người bán rong rao bán cam, bánh ngọt, ia Dinh-gơ và bia Nét-tơn
1)
. Họ
cũng bán những hàng khác như diêm và các thứ tương tự: xi gắn, những sản phẩm được phép
sản xuất dùng để nhóm lửa, v.v.. Một số người khác, gọi là jobbers
1*
, thì đi lang thang
ngoài phố tìm làm một số việc linh tinh nào đó ngẫu nhiên gặp được; một vài người kiếm
được việc làm từng ngày, nhưng đa số thì không được may mắn như vậy.
Ông U. Sam-nít, mục sư ở I-xtơ - En-đơ của Luân Đôn kể lại rằng:
"Ở cổng tất cả các bến tàu Luân Đôn, mỗi buổi sáng mùa đông, từ sớm tinh mơ đã có hàng trăm người nghèo đứng đợi
giờ mở cổng để hòng kiếm một việc làm cho ngày hôm ấy, và khi một số trẻ nhất và khoẻ nhất, hoặc là quen biết nhất đối
với nhân viên quản trị các bến tàu đã được thuê thì hàng trăm người còn lại thất vọng buồn bã quay về căn nhà tồi tệ của
mình"
104
.
Những con người ấy đã không kiếm được việc làm, lại không muốn nổi lên chống lại xã
hội, thì còn có cách gì khác ngoài việc đi ăn mày? Và vì vậy, không nên ngạc nhiên về số ăn
mày rất đông, phần nhiều là những người có sức lao động, mà cảnh sát luôn luôn xua đuổi.
Nhưng lối ăn xin của những người ấy cũng đặc biệt. Họ thường đi lang thang trên đường phố
với cả gia đình, lúc dừng ở chỗ này, lúc dừng ở chỗ kia, để hát một bài ca than vãn hoặc nói
vài câu để kêu gọi lòng thương của người qua đường. Điều kỳ lạ là hầu như chỉ thấy loại ăn
mày đó trong những khu phố lao động và hầu như họ chỉ sống nhờ vào của bố thí của những
người lao động. Có khi cả gia đình đứng lặng lẽ ở một phố đông người qua lại, không nói
một lời, chỉ dùng cái dáng cầu xin giúp đỡ của mình làm cho người ta xúc động. Ở đây họ
cũng chỉ trông vào sự thông cảm của những người lao động, là những người do kinh nghiệm
bản thân, đã biết thế nào là đói, và bất cứ lúc