C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN TOÀN TẬP - TẬP 2 - Trang 285

nào bản thân họ cũng có thể rơi vào tình cảnh ấy, và thực ra, sự cầu khẩn âm thầm mà vô
cùng xúc động ấy hầu như chỉ thấy ở những đường phố thường có công nhân, và vào những
giờ công nhân qua lại; tình hình ấy thường xảy ra hơn vào tối thứ bảy, bấy giờ nói chung
những "điều bí mật" của các khu phố lao động thường phơi bày ra các đường phố lớn, bấy
giờ giai cấp tư sản hết sức tránh những nơi nhơ nhuốc ấy. Và trong số những "người thừa" ấy,
nếu có người nào đủ can đảm và phát khùng để công khai chống lại xã hội và dùng chiến
tranh công khai chống giai cấp tư sản để đáp lại cuộc chiến tranh ngầm của giai cấp tư sản
chống lại họ, - thì người đó sẽ đi ăn cắp, ăn cướp, giết người.

Theo những báo cáo của các uỷ viên các tiểu ban luật về người nghèo, thì số "người thừa"

như vậy trung bình ở Anh và Oen-xơ lên tới một triệu rưởi; ở Xcốt-len, vì không có luật về
người nghèo nên không xác định được con số, còn về Ai-rơ-len, thì chúng ta sẽ nói riêng.
Tuy vậy, số một triệu rưởi này lại chỉ kể những người đã thực sự được cứu tế ở cơ quan bảo
trợ người nghèo không kể đến số người còn có thể tự xoay xở chút ít để khỏi phải chạy đến
cái nước cuối cùng không ai ưa đó; nhưng ngược lại, một phần lớn trong số đó thuộc về các
khu nông nghiệp, nên không kể ở đây được. Trong thời kỳ khủng hoảng, con số ấy cố nhiên
là tăng lên nhiều và sự bần cùng cũng đạt đến cực độ. Lấy ví dụ cuộc khủng hoảng năm 1842
là cuộc khủng hoảng gần đây nhất và cũng dữ dội nhất: bởi vì khủng hoảng càng tái diễn thì
mức độ dữ dội càng tăng, và cuộc khủng hoảng sắp xảy ra chậm nhất là vào năm 1847, căn
cứ vào các triệu chứng mà phán đoán, có lẽ còn dữ dội và kéo dài hơn. Trong thời gian diễn
ra cuộc khủng hoảng ấy, tiền thuế trợ giúp người nghèo ở tất cả các thành phố tăng lên đến
một mức chưa từng thấy. Ví dụ như ở Xtốc-poóc cứ trả một pao
xtéc-linh tiền thuê nhà thì phải đóng thêm 8 si-linh tiền thuế trợ giúp người nghèo, đến nỗi
riêng món tiền thuê ấy đã chiếm đến 40 phần trăm tổng số tiền thuê nhà trong thành phố;
ngoài ra hàng dãy phố bỏ trống, dân số trong thành phố giảm hơn lúc thường ít ra là 2 vạn
người; và trước cửa những ngôi nhà bỏ không, thường thấy cái biển đề: Stockport to let -
Xtốc-poóc cho thuê. Ở Bôn-tơn, là nơi trong những năm bình thường số tiền thuê nhà phải
chịu thuế trợ giúp người nghèo trung bình là 86 000 pao xtéc-linh nay tụt xuống 36 000;
nhưng ngược lại số người nghèo cần cứu tế lên tới 14 000 người, tức là hơn 20 phần trăm
tổng số cư dân. Ở Lít-xơ cơ quan bảo trợ người nghèo có một quỹ dự trữ 10 000 pao xtéc-
linh, món tiền ấy và số tiền lạc quyên 7 000 pao xtéc-linh đều đã tiêu sạch ngay từ trước khi
cuộc khủng hoảng lên đến mức cao nhất. Ở đâu đâu cũng như vậy cả. Bản báo cáo về tình
hình các khu công nghiệp năm 1842 do một uỷ ban của Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc
viết vào tháng Giêng 1843, dựa trên những tài liệu chi tiết của các chủ xưởng, đã nói rằng
năm 1842 thuế trợ giúp người nghèo trung bình tăng gấp đôi năm 1839, còn số người cần
cứu tế cùng thời gian ấy lại tăng gấp ba, và thậm chí gấp năm lần; rằng nhiều người xin cứu
tế là thuộc loại những người từ trước đến nay chưa hề phải xin trợ giúp v.v.; rằng so với
những năm 1834 - 1836, số thực phẩm mà giai cấp công nhân nhận được giảm đi hai phần
ba; rằng mức tiêu thụ về thịt đã giảm rất nhiều - một vài nơi giảm sút 20 phần trăm, một số

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.