những căn phòng ẩm thấp, những nhà hầm nước rỉ từ dưới lên hoặc những tầng sát mái nước
dội từ trên xuống. Người ta xây cho họ những ngôi nhà mà uế khí không có lối thoát. Người
ta cho họ những áo quần xấu, rách tả tơi hoặc bở bục, những thứ ăn tồi tệ, làm giả và khó
tiêu. Người ta gây cho họ có những tâm trạng đối lập mạnh mẽ nhất, những sự thay đổi đột
ngột, lúc thì lo sợ, lúc thì hy vọng; người ta dồn đuổi họ như săn thú và không để cho họ yên
thân và sống cuộc đời yên tĩnh. Người ta tước đoạt của họ mọi thú vui - trừ thú vui tình dục
và rượu chè; - và hàng ngày người ta bắt họ làm việc đến kiệt sức về tinh thần cũng như về
thể chất, do đó luôn luôn đẩy họ chìm đắm không sao kìm hãm được hai thú
vui độc nhất mà họ có thể đạt được. Và nếu bằng ấy thứ cũng chưa đủ để huỷ hoại họ, nếu họ
chống lại được tất cả những cái đó thì họ lại sa vào cảnh thất nghiệp trong thời gian khủng
hoảng, cuộc khủng hoảng này đã làm cho họ mất nốt chút gì còn lại.
Trong tình trạng như vậy, những người thuộc giai cấp nghèo khổ nhất ấy làm sao còn có
thể khoẻ mạnh và sống lâu được? Trong tình trạng như vậy, còn có thể trông mong gì khác
ngoài tỷ lệ tử vong cực kỳ cao, ngoài bệnh dịch hoành hành liên miên, ngoài sự tàn lụi không
ngừng trầm trọng thêm về thể lực của nhân dân lao động? Chúng ta hãy xem thực tế như thế
nào.
Đâu đâu chúng ta cũng thấy những bằng chứng xác nhận rằng nhà ở của người lao động
nằm trong các khu tồi tàn nhất của thành phố, cộng với điều kiện sinh hoạt chung của họ là
nguồn gốc của bao nhiêu tật bệnh. Tác giả bài báo đã dẫn ở trên đăng trên tạp chí "Artizan"
khẳng định hoàn toàn đúng rằng bệnh phổi là kết quả tất nhiên của những điều kiện sinh sống
ấy, và thực tế là bệnh ấy thường thấy nhất trong công nhân. Qua vẻ tiều tuỵ của rất nhiều
người gặp trên các phố, chúng ta thấy rõ rằng không khí tồi tệ ở Luân Đôn, và nhất là ở các
khu lao động đã làm cho bệnh lao phổi phát triển rất dễ dàng. Buổi sáng sớm, vào giờ mọi
người đi làm, nếu chúng ta dạo qua các phố thì thật phải ngạc nhiên vì gặp quá nhiều người
trông có vẻ bị lao phổi hoặc là gần đến tình trạng ấy. Ngay ở Man-se-xtơ người ta trông cũng
không đến nỗi như thế; những bóng ma nhợt nhạt, gầy còm, ngực lép, mắt sâu đó mà người
ta gặp ở mỗi bước đi, những bộ mặt tiều tuỵ, uể oải, mất hết nhựa sống ấy, tôi không thấy ở
đâu nhiều như ở Luân Đôn. Tuy rằng ở các thành phố công nghiệp Bắc Anh hàng năm bệnh
lao phổi cũng đã giết hại khá nhiều người. Đồng thời với bệnh lao phổi, không kể các bệnh
phổi khác và bệnh sốt phát ban, trước hết phải nói đến bệnh thương hàn - là bệnh hoành hành
dữ dội nhất trong nhân dân lao động. Cái tai hoạ phổ biến ấy, theo báo cáo chính thức về tình
hình vệ sinh
của giai cấp công nhân, là một hậu quả trực tiếp của tình trạng nhà cửa công nhân tồi tàn,
không thoáng khí, ẩm thấp và bẩn thỉu. Báo cáo ấy - không nên quên rằng bản báo cáo này là
do những thày thuốc bậc nhất của Anh, dựa trên tài liệu của một số thày thuốc khác mà viết
ra - khẳng định rằng chỉ cần một cái sân không thoáng khí, một ngõ cụt không có cống thoát
nước, là đủ gây ra bệnh sốt, và cơ hồ bao giờ cũng như vậy cả, nhất là khi dân cư ở chật chội
và có chất hữu cơ thối rữa gần đấy. Bệnh sốt này hầu như ở đâu cũng có tính chất giống nhau