và hầu như trường hợp nào cũng chuyển thành bệnh thương hàn rõ rệt. Bệnh ấy thường thấy
ở những khu lao động trong tất cả các thành phố lớn, thậm chí ở cả một số phố xây dựng tồi
và không được bảo dưỡng chu đáo trong những điểm dân cư nhỏ hơn; và nó lan truyền mạnh
mẽ nhất trong các khu nhà ổ chuột, tuy rằng tất nhiên nó cũng tìm được nạn nhân cá biệt
trong những khu phố tốt hơn. Nó đã hoành hành ở Luân Đôn từ khá lâu; và do nó phát triển
đặc biệt dữ dội năm 1837 mà có bản báo cáo chính thức nói trên. Theo báo cáo hàng năm của
bác sĩ Xao-vu-dơ Xmít, tại bệnh viện sốt ở Luân Đôn, năm 1843 có 1 462 bệnh nhân điều trị,
nhiều hơn bất cứ năm nào trước đó 418 người. Trong những vùng ẩm thấp và bẩn thỉu của
các khu phía bắc, phía đông và phía nam Luân Đôn, bệnh ấy hoành hành đặc biệt dữ dội.
Bệnh nhân phần nhiều là công nhân mới từ nông thôn ra, trên dọc đường, và ngay ở Luân
Đôn họ đã chịu đủ mọi điều thiếu thốn khổ cực, ngủ ngoài đường phố, quần áo phong phanh,
đói khát, không tìm được việc làm và cuối cùng đã mắc phải bệnh sốt. Lúc được mang vào
bệnh viện, họ yếu đến nỗi phải dùng rất nhiều rượu vang, rượu cô-nhắc, các thuốc pha chế a-
mô-ni-ác và nhiều chất kích thích khác. Số chết lên tới 16,5 phần trăm tổng số bệnh nhân. Ở
Man-se-xtơ, cũng thấy có bệnh sốt ác tính ấy; trong những khu lao động tồi tàn nhất ở thành
phố cũ, khu An-cốt-xơ, khu Ai-rơ-len nhỏ, v.v., bệnh ấy hầu
như chưa bao giờ dứt hẳn, tuy nhiên ở đây, cũng như ở tất cả các thành phố của Anh, bệnh
không lan tràn dữ dội như người ta tưởng. Nhưng ngược lại, ở Xcốt-len và ở Ai-rơ-len bệnh
thương hàn hoành hành dữ dội ngoài sức tưởng tượng; ở Ê-đin-bớc và Gla-xgô năm 1817,
trong thời gian vật giá cao vọt, năm 1826 và 1837, sau các cuộc khủng hoảng thương nghiệp,
bệnh thương hàn hoành hành đặc biệt mãnh liệt, và mỗi lần kéo dài khoảng ba năm rồi mới
hơi ngớt đi một thời gian. Ở Ê-đin-bớc, trong nạn dịch năm 1817 gồm 6 000 người và trong
nạn dịch năm 1837 gần 10 000 người mắc bệnh; và cứ mỗi lần bệnh dịch tái phát thì không
những số người ốm, mà cả mức độ dữ dội của bệnh và tỷ lệ người chết đều tăng
1)
. Nhưng
những tổn thất do bệnh ấy gây ra ở những thời kỳ trước kia không thấm vào đâu so với lúc
bệnh hoành hành sau cuộc khủng hoảng năm 1842; một phần sáu tổng số dân nghèo ở Xcốt-
len mắc bệnh và những người ăn mày lang thang đem truyền bệnh từ nơi này qua nơi khác
một cách nhanh chóng lạ thường; nhưng bệnh không đụng đến các giai cấp trung đẳng và
thượng đẳng của xã hội. Trong hai tháng, số người mắc bệnh nhiều hơn cả trong mười hai
năm về trước. Ở Gla-xgô năm 1843, 12 phần trăm dân số, tức là 32 000 người mắc bệnh,
trong số đó có 32 phần trăm không cứu chữa được, trong khi Man-se-xtơ và Li-vớc-pun, tỷ
số người chết thường không vượt quá 8 phần trăm. Bệnh nguy kịch vào ngày thứ bảy và ngày
thứ mười lăm; đến lúc này, da bệnh nhân thường bị vàng; tác giả của chúng ta cho là tình
trạng ấy chứng tỏ rằng phải tìm nguyên nhân của bệnh cả trong sự hồi hộp và lo lắng về tinh
thần
2)
. -
Ở Ai-rơ-len loại dịch này cũng thường xảy ra. Năm 1817 và 1818, trong thời gian hai mươi
mốt tháng, bệnh viện Điu-blin đã nhận 39 000 bệnh
nhân sốt và theo lời ông tỉnh trưởng A-li-xơn thì trong một năm sau đó (trong tập II "Những
nguyên lý về dân số") con số thậm chí đã lên tới 60 000. Ở Coóc-cơ những năm 1817 - 1818,