-
1810
5146
-
1815
7898
-
1820
13710
-
1825
14437
-
1830
18107
-
1835
20731
-
1840
27187
-
1841
27760
-
1842
31309
Nói cách khác, trong 37 năm, số vụ bắt giam đã tăng lên bảy lần. Trong số vụ bắt giam
năm 1842, riêng ở Lan-kê-sia có tới 4 497 vụ, tức là quá 14 phần trăm và ở khu Mít-đơn-
xếch (bao gồm cả Luân Đôn) tới 4 049 vụ, tức là trên 13 phần trăm. Như vậy, ta thấy rằng chỉ
riêng hai khu vực có những thành phố lớn với đông đảo dân vô sản đã có tới trên một phần tư
tổng số vụ phạm tội của cả nước, tuy rằng dân số ở đó còn xa mới bằng một
phần tư tổng số dân cả nước. Qua các bản thống kê tội trạng, còn có thể thấy rõ là phần lớn
các vụ phạm tội rơi vào giai cấp vô sản: năm 1842, 32,35 phần trăm số tội nhân hoàn toàn
không biết đọc, biết viết; 58,82 phần trăm biết võ vẽ chút ít; 6,77 phần trăm đọc, viết khá;
0,22 phần trăm được học cao, còn 2,34 phần trăm thì không xác định được trình độ học vấn
như thế nào. Ở Xcốt-len, số vụ phạm tội còn tăng nhanh hơn nữa; năm 1837, đã có 3 176 vụ
và năm 1842, 4 189 vụ. Ở La-nác-sia - chính viên tỉnh trưởng A-li-xơn đã làm báo cáo chính
thức về vấn đề này - trong ba mươi năm dân số tăng gấp đôi, còn số vụ phạm tội thì cứ năm
năm rưỡi lại tăng gấp đôi, như vậy là số tội phạm tăng nhanh hơn số dân tới sáu lần. - Phần
lớn các vụ phạm tội, như ở tất cả các nước văn minh khác, là tội vi phạm quyền sở hữu, tức
là những tội do thiếu thốn cái này, cái khác mà sinh ra, bởi vì chẳng ai đi ăn cắp cái mà mình
đã có. Tỷ lệ giữa số tội vi phạm quyền sở hữu với số dân là 1/7 140 ở Hà Lan, 1/1 804 ở
Pháp, còn ở Anh, vào khoảng thời kỳ Ga-xken viết cuốn sách của ông, là 1/799. Tỷ lệ giữa số
tội hành hung người với số dân ở Hà Lan 1/28 904, ở Pháp là 1/17 573 và ở Anh là 1/23 395;
tỷ lệ giữa tất cả các vụ phạm tội nói chung với số dân trong các khu nông nghiệp là 1/1 043
và trong các khu công xưởng là 1/840
1)
; hiện nay, trong toàn nước Anh, tỷ lệ đó gần tới