chính cho các nguyên tắc mà quyền lực của các vương hầu ở Đức dựa vào nên họ đã trở
thành những kẻ thống trị tuyệt đối của nước Đức. Dù ở các nước nhỏ có xẩy ra việc gì thì
cũng chẳng có ý nghĩa thực tiễn nào. Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản tự do Đức chẳng đạt
được thành quả gì chừng nào nó còn bó hẹp trong mấy nước nhỏ ở miền Nam; nó chỉ có tác
dụng khi nào giai cấp tư sản Phổ thức tỉnh khỏi cơn mê ngủ. Vì nhân dân Áo chưa được liệt
vào thế giới văn minh và, phù hợp với điều đó, ngoan ngoãn phục tùng nền độc tài kiểu gia
trưởng của bọn thống trị, nên nước có thể được coi như trung tâm lịch sử hiện đại của Đức,
như chiếc phong vũ biểu cho sự biến đổi dư luận xã hội của Đức là Phổ.
Sau khi Na-pô-lê-ông sụp đổ, vua Phổ đã sống được mấy năm hạnh phúc nhất đời mình.
Thật thế, hắn bị lừa gạt từ khắp mọi phía. Anh lừa gạt hắn, Pháp lừa gạt hắn, các bạn bè thân
thích của chính hắn là hoàng đế Áo và hoàng đế Nga cũng nhiều lần lừa gạt hắn. Nhưng vì
chan chứa nhiệt tình. Hắn thậm chí không
phát hiện ra điều đó; hắn không hề nghĩ rằng trên thế giới lại có những kẻ vô lại dám lừa gạt
cả "đức vua chính trực" Phri-đrích Vin-hem III. Hắn rất phấn khởi: Na-pô-lê-ông đã bị đánh
đổ, hắn chẳng có gì phải sợ nữa. Hắn duy trì điều 13 trong điều lệ của Liên bang Đức cho
phép các nước ở Đức định ra hiến pháp
152
. Hắn còn duy trì một điều nữa là về tự do báo chí.
Hơn nữa, ngày 22 tháng Năm 1815, hắn cho ra một đạo dụ bắt đầu bằng mấy chữ sau đây:
"Chế độ đại nghị nhân dân sẽ được thực hiện", trong đó sự khoái trí tự mãn của y đã kết hợp
tài tình với tính kiêu căng kiểu thày cai. Ít lâu sau, hắn bổ nhiệm một tiểu ban để dự thảo hiến
pháp cho nhân dân mình. Thậm chí năm 1819, khi những triệu chứng cách mạng đã xuất hiện
ở Phổ, khi không khí phản động bao trùm khắp châu Âu và thành quả tốt đẹp của hội nghị
Viên đang ở vào thời kỳ toàn thịnh, - thậm chí lúc đó hắn có tuyên bố rằng từ nay trở đi sẽ
không vay một thứ quốc trái nào nếu không được sự đồng ý của nghị viện vương quốc sắp
thành lập.
Tiếc thay! Thời kỳ hạnh phúc ấy không dài. Trong đầu óc của quốc vương, sự sợ hãi đối
với Na-pô-lê-ông đã được thay thế rất nhanh bằng sự sợ hãi đối với cách mạng. Nhưng thư
sau sẽ nói về điểm này.
Tôi còn phải bổ sung thêm đôi lời. Mỗi khi tại các cuộc hội họp dân chủ ở Anh người ta
thông qua lời chào mừng gửi "các nhà yêu nước ở tất cả các nước" thì cần phải tin chắc rằng
trong đó có tên An-đrê-át Hốp-phơ. Nhưng dưới ánh sáng của tất cả những điều trình bày về
kẻ thù của Na-pô-lê-ông ở Đức thì tên tuổi của Hốp-phơ có đáng được sự kính chào của
những người dân chủ không? Hốp-phơ là một nông dân bảo thủ, ngu muội, cuồng tín, nhiệt
tình của y là nhiệt tình của bọn Văng-đê, nhiệt tình của "giáo hội và hoàng đế". Y có gan
chém giết, nhưng bọn Văng-đê chém giết là để chống lại những người cộng hoà. Còn y chém
giết để duy trì nền chuyên chế kiểu gia trưởng của Viên và La Mã.
Hỡi các nhà dân chủ Anh, vì danh dự của nhân dân Đức, xin đừng nhắc đến tên cuồng tín ấy
nữa! Nước Đức có những nhà yêu nước ưu tú hơn y. Tại sao không nêu tên tuổi của Tô-mát
Muyn-txơ, lãnh tụ lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa nông dân năm 1525, một nhà dân chủ chân