luật ngũ cốc ở Anh năm 1815 là một ví dụ rõ ràng nhất về những hiện tượng thường thấy
khắp nơi ở châu Âu. Nhưng khi đó giai cấp tư sản lại mạnh hơn bao giờ hết. Khi đó thương
nghiệp và công nghiệp đã mở rộng đến mọi nơi và làm phồng túi bọn tư sản giàu có; sự tăng
thêm phúc lợi của giai cấp tư sản biểu hiện ở hoạt động đầu cơ càng phát triển, ở nhu cầu
ngày một tăng về các thứ tiện nghi và hàng xa xỉ. Giai cấp tư sản không thể âm thầm chịu
đựng hơn nữa sự thống trị của một giai cấp mà sự suy tàn đã được chuẩn bị hàng thế kỷ, mà
lợi ích đối lập với lợi ích của nó, mà chính quyền do giai cấp tạm nắm giữ lại cho chính tay
nó dựng lên. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và quý tộc là không tránh khỏi; nó hầu như
bắt đầu ngay sau khi ký hoà ước.
Giai cấp tư sản mà lực lượng hoàn toàn do tiền quyết định, không thể tiếp nhận một chính
quyền nào khác hơn cái chính quyền làm cho tiền trở thành tiêu chuẩn duy nhất của khả năng
hoạt động lập pháp của con người. Mọi đặc quyền phong kiến, mọi quyền lũng đoạn chính trị
đã trải qua nhiều thế kỷ phải họp lại thành một đặc quyền và quyền lũng đoạn to lớn của tiền.
Đấy chính là nguyên nhân khiến cho quyền thống trị chính trị của giai cấp tư sản mang cái vỏ
tự do chủ nghĩa. Giai cấp tư sản xoá bỏ mọi sự khác nhau cũ giữa các đẳng cấp hiện tồn tại
trong nước, mọi đặc quyền và quyền ưu tiên dựa trên sự chuyên quyền; nó buộc phải đưa
nguyên tắc bầu cử làm cơ sở của quyền thống trị tức là thừa nhận trên nguyên tắc quyền bình
đẳng, buộc phải giải thoát báo chí khỏi sự ràng buộc của chế độ kiểm duyệt quân chủ, thực
hiện chế độ bồi thẩm để tự giải thoát khỏi sự ràng buộc của tầng lớp quan toà đặc biệt đang
hình thành một quốc gia trong một quốc gia. Chừng nào còn nói về những cái đó thì những
người tư sản dường như là những người dân chủ chân chính. Nhưng giai cấp tư sản thực hiện
tất cả những việc cải lương đó chỉ là nhằm đem đặc quyền của tiền thay thế cho tất cả những
đặc quyền cá nhân và đặc quyền cha truyền con nối đã tồn tại trước kia. Như vậy, bằng việc
thi hành điều kiện tối thiểu về tài sản đối với quyền bầu cử và ứng cử, nó đã biến nguyên tắc
tuyển cử thành của riêng của giai cấp mình. Nguyên tắc bình đẳng lại bị xoá bỏ sau khi bị bó
hẹp thành "bình đẳng trước pháp luật", có nghĩa là bình đẳng trên cơ sở bất bình đẳng giữa
người giàu và người nghèo, bình đẳng trong điều kiện của bất bình đẳng chủ yếu hiện nay,
tóm lại, có nghĩa giản đơn gọi bất bình đẳng là bình đẳng. Như vậy, tự do xuất bản cũng chỉ
là đặc quyền của giai cấp tư sản vì xuất bản thì cần phải có tiền và người mua xuất bản phẩm
cũng phải có tiền. Như vậy, chế độ bồi thẩm trở thành đặc quyền của giai cấp tư sản vì bằng
những biện pháp thích đáng chỉ có những người "đáng kính trọng" mới được cử làm bồi
thẩm.
Tôi thấy cần trình bày đôi chút về vấn đề thống trị của giai cấp tư sản để làm sáng tỏ hai sự
việc sau đây. Một là ở tất cả các nước, trong khoảng từ 1815 đến 1830, phong trào về thực
chất mang tính chất dân chủ của giai cấp công nhân đều ít nhiều thuộc vào phong trào tự do
của giai cấp tư sản. Tuy tiên tiến hơn giai cấp tư sản, nhưng công nhân còn chưa có thể nhìn
thấy sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa dân chủ, giữa sự giải phóng
giai cấp tư sản và sự giải phóng giai cấp công nhân; họ chưa có thể phân rõ giới hạn giữa tự
do của tiền và tự do của con người chừng nào đồng tiền chưa được giải phóng về chính trị,