Hằng ngày đi làm thêm, tôi không cảm thấy mệt mỏi hay phiền phức, đi
học thì ngược lại, hây dà…
Ở Đài Loan, cuộc sống của học sinh lớp Mười hai không có gì đặc sắc, giờ
mỹ thuật, giờ công nghệ, giờ thể dục, giờ thư pháp, giờ sinh hoạt… tất cả
đều là hữu danh vô thực, năm ngày ba bữa lại có thầy cô giáo mượn giờ để
kiểm tra hoặc dạy đuổi bài, kể cả không có bài để dạy đuổi không có gì để
kiểm tra, bọn họ cũng mời một thầy giáo đến cho học sinh tự học, kiểu như
học sinh mà không thi đỗ vào khoa Luật trường đại học Đài Loan thì những
ông thầy bà cô ấy sẽ rất có lỗi với cuộc đời tươi đẹp của mình vậy.
Có điều, về điểm này thì trường trung học nữ Tân Trúc bọn tôi đỡ hơn
nhiều, coi trọng giáo dục “Ngũ đức cùng tiến(1)” là niềm tự hào truyền
thống của trường tôi, đến cả người hay giả bệnh như thầy thể dục cũng
không dám ượn giờ để thi cử. Có điều, thi cử hết bài này đến bài khác vẫn
là một thứ áp lực không thể thiếu.
Nhưng rất xin lỗi, cuộc đời của tôi, tôi muốn tự mình quyết định.
Chỉ có quay về quán cà phê Đợi Một Người, khoác lên chiếc tạp dề trắng
bên trên dính mấy đốm cà phê, đứng sau quầy bar, được bủa vây trong mùi
hương của những hạt cà phê đã rang sấy, tôi mới có thể thở phào nhẹ nhõm.
“Hôm nay sắc mặt không được tốt lắm?” Albus hiếm khi nào hỏi han như
thế.
Albus thưởng xuyên không nói một lời, kể cả đến lúc đóng cửa quán mà cô
vẫn như người câm thì tôi cũng không lấy làm lạ.
Tôi nghĩ mình biết cách tôn trọng sự trầm mặc của cô, vì sự trầm mặc của
Albus không chỉ là cá tính, mà còn bao hàm cả trí tuệ.
“Ngày mai phải thi thử, phiền chết đi được.” Tôi vừa nhìn các nhóm từ
tiếng Anh dán trên quầy bar, vừa pha chế cà phê Sumiyaki(2) đá.