9
SỰ LẠM DỤNG KINH TẾ HỌC
“Các quyết định của nhân loại có ảnh hưởng đến tương lai... là thứ không
phụ thuộc vào sự mong đợi theo các phép toán chính xác, bởi vì không có cơ
sở để thực hiện các phép tính toán này;... bẩm sinh chúng ta ưa thích các
hành động sao cho bánh xe quay đều, để cái tôi lý trí của chúng ta được
chọn lựa... nhưng thường thì quá trình này bị đẩy lùi vì các động cơ phát
xuất từ những ý tưởng bất chợt, từ tình cảm hoặc sự ngẫu nhiên.”
— John Maynard Keynes, 1935
Cuối thập niên 1940, kinh tế học đã “đoạn giao” với các cựu đồng minh
của nó là khoa học chính trị, triết học và luật học để kết bằng hữu với đồng
minh mới: các ngành khoa học tự nhiên như toán học ứng dụng và vật lý.
Mỉa mai thay, kinh tế học gắn kết với vật lý cổ điển về nguyên tắc nhân quả
lại đúng vào lúc bản thân các nhà vật lý lại bắt đầu đi theo hướng không
tuyệt đối chắc chắn và có sự phức tạp. Việc hình thành giải thưởng Nobel
Kinh tế năm 1969, tức là 74 năm sau khi hình thành giải Nobel Vật lý, đã
xác nhận sự thay đổi về bản chất hàn lâm. Các nhà kinh tế học đã trở thành
những “bậc cao tăng” trong phần lớn các hoạt động của nhân loại – mang
đến thịnh vượng, công ăn việc làm, tiết kiệm và đầu tư – và họ được trang bị
tốt với nhiều phương trình, mô hình, máy tính để thực thi các chức năng tu
hành.
Kể từ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản tự do kinh tế, các nền kinh tế luôn
luôn biến động. Hết bong bóng tới hỗn loạn, rồi sụp đổ và suy thoái đều đặn
diễn ra như các cơn bão lũ. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì