hàng trung ương Đức) gửi William McChesney Martin, chủ tịch Ban Thống
đốc Hệ thống Dự trữ Liên bang.
Đề ngày 30/3/1967, “Lá thư chúc phúc”
Ngài Martin thân mến,
Thỉnh thoảng có một vài mối lo lắng... rằng... những khoản chi tiêu bắt
nguồn từ sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đức [có thể] dẫn đến việc Mỹ sẽ
tổn thất một số vàng...
Dĩ nhiên ngài cũng nhận thấy rõ sự thật hiển nhiên là Ngân hàng Trung
ương Đức trong mấy năm qua đã không hề chuyển đổi bất kỳ... một đồng
đô-la nào... thành vàng...
Ngài có thể yên tâm rằng trong tương lai Ngân hàng Trung ương Đức
cũng sẽ tiếp tục chính sách này và sẽ thực hiện đầy đủ vai trò của mình
trong việc đóng góp cho sự hợp tác tiền tệ quốc tế.
Việc có được sự đảm bảo bí mật từ Đức hoàn toàn làm an lòng nước Mỹ.
Đổi lại, Hoa Kỳ tiếp tục gánh chịu chi phí bảo vệ Đức khỏi xe tăng và quân
đội Liên Xô đóng quân trong những khu rừng xung quanh Berlin và khắp
vùng Đông Âu!
Tuy nhiên, Đức không phải là nước duy nhất có tiềm năng đổi đôla lấy
vàng, và hậu quả ngay lập tức của việc phá giá đồng Bảng Anh vào năm
1967 là Mỹ đã buộc phải bán hơn 800 tấn vàng với giá thấp để duy trì tỷ
suất cân bằng giữa đồng đô-la và vàng. Vào tháng 6/1967, chỉ một năm sau
khi rút khỏi quyền kiểm soát quân sự của NATO, Pháp cũng đã rút khỏi
London Gold Pool. Những thành viên khác tiếp tục điều hành, nhưng đây đã
là một sự thất bại: các yêu cầu đổi lấy vàng từ những người đang giữ đô-la
đã trở thành một cơn bệnh dịch. Đến tháng 3/1968, lượng vàng chảy ra khỏi
kho dự trữ đã đạt đến mức 30 tấn một giờ.
Thị trường vàng London tạm thời đóng cửa vào ngày 15/3/1968 để tạm
dừng việc chảy máu vàng, và tiếp tục đóng cửa trong vòng hai tuần, một sự
bắt chước mù quáng đến kỳ lạ như kỳ nghỉ của ngân hàng Mỹ năm 1933.
Một vài ngày sau vụ đóng cửa, Quốc hội Hoa Kỳ đã hủy bỏ yêu cầu dự trữ
vàng để đảm bảo cho đồng đô-la; điều này đã giải phóng nguồn cung vàng
của Hoa Kỳ để có thể sẵn sàng đem bán với giá 35 đô-la/ounce khi cần. Tất