tuổi thanh xuân và mở rộng suốt trong giai đoạn trưởng thành. Mặc cảm
Êđip xảy ra và được giải quyết suốt trong giai đoạn dương vật.
Thuyết Freud về phát triển tâm sinh học đóng một vai trò quan trọng
trong khái niệm về chứng loạn thần kinh của ông, một chứng bệnh thường
xảy ra trong số những rối loạn hành vi. Nếu năng lượng bản năng dục tính
bị ám ảnh tại bất kỳ thời kỳ đặc thù nào của phát triển tâm sinh học, khả
năng của cá nhân để đương đầu với những thời kỳ và những xung đột thành
công bị thu hẹp.
Điều trị bằng phân tâm học cho những người bị rối loạn nhân cách là
một quá trình phức tạp và kéo dài. Một số phương pháp đặc trưng và những
nguyên lý được sử dụng để đạt tới mục đích giúp đỡ bệnh nhân gia tăng sự
thông hiểu trong những quyết định vô thức về hành vi của họ. Những
phương pháp này gồm kết hợp tự do, diễn dịch giấc mơ, và phân tích việc
thuyên chuyển (mối quan hệ phát triển giữa bệnh nhân và nhà phân tích).
Phân tâm học cũng có những lời phê bình. Những cấu trúc xây dựng
phân tâm học có khuynh hướng toàn cầu hóa, gồm mọi thứ trong bản chất,
hiếm khi có sự rõ ràng và có thể quan sát được. Vì tính chung chung và
thiếu những đặc tính vận hành trong cấu trúc xây dựng của hệ thống, những
giả thuyết bắt nguồn từ thuyết phân tâm học có thể vừa không được xác
nhận rõ ràng, vừa không được bác bỏ một cách rõ ràng. Do những lý do
này hay những lý do khác, những nhà phê bình phân tâm học thừa nhận
rằng cả hai, học thuyết và những người ủng hộ nó, xung đột với những
nguyên tắc được chấp nhận rộng rãi của sự đánh giá thực nghiệm và sự bác
bỏ ngấm ngầm trong phương pháp khoa học.
Xét giá trị khám khá mênh mông của Freud, không là thái quá khi nói
rằng hầu hết mỗi một cách khác tiếp cận lý thuyết với nhân cách đều là chỉ
trích hoặc phản ứng với thuyết phân tâm học. Trong những ngành học
(ngoài tâm lý học và tâm thần học) như lịch sử, khảo cổ học, xã hội học và
khoa học chính trị, không có một học thuyết tâm lý nào khác có thể so sánh
với phân tâm học về tầm tác động quan trọng của nó.