Những thuật ngữ gốc: Ngôn ngữ dữ liệu
Một học thuyết chuẩn mực chứa một số thuật ngữ được định nghĩa bằng
cách tham khảo nhiều thuật ngữ căn bản hơn trong phạm vi học thuyết đó.
Tuy nhiên, ở mức độ cơ bản nhất, học thuyết nên có một vài thuật ngữ và
không nên định nghĩa quá hạn hẹp. Đặc biệt, nên có một vài thuật ngữ định
nghĩa chung cho các nhà lý luận theo những định hướng khác nhau. Chẳng
hạn, nhà lý luận trong ngành vật lý có thể sử dụng thuật ngữ nhiệt độ trong
học thuyết của họ. Thuật ngữ này không cần phải định nghĩa xa hơn trong
học thuyết, vì lẽ rằng các nhà vật lý thống nhất rộng rãi định nghĩa về nhiệt
độ và thang đo của nó. Những thuật ngữ như thế, được sử dụng theo cùng
một nghĩa trong một lĩnh vực nhất định, tạo nền tảng cho việc thực nghiệm
của học thuyết và được gọi là những thuật ngữ khởi thủy. Những thuật ngữ
khởi thủy được xem như là ngôn ngữ dữ liệu của học thuyết.
Chức năng cơ bản của ngôn ngữ dữ liệu là tránh sự luẩn quẩn cơ bản
thường thấy trong bất kỳ những hệ thống lý luận chuẩn mực thuần túy nào.
Một số hệ thống toán học, chẳng hạn như hình học ánh xạ, hoàn toàn lòng
vòng vì toàn bộ những thuật ngữ được định nghĩa dựa trên những thuật ngữ
khác trong hệ thống. Kết quả là, học thuyết không có nền tảng thực nghiệm
và dĩ nhiên không phải là một học thuyết có thể kiểm tra được theo nghĩa
thông thường. Dù những hệ thống chuẩn mực như thế hữu ích cho các nhà
toán học, chúng lại chỉ giúp đỡ rất ít cho những nhà khoa học nào mong
muốn tiên đoán và nghiên cứu những hiện tượng thực nghiệm. Vì thế, ngôn
ngữ dữ liệu của học thuyết càng vững chắc, càng trung lập thì càng thích
hợp cho việc học thuyết tiên đoán những hiện tượng quan tâm.