dụng cho dân số nào, học thuyết có thể đối phó cực kỳ dễ dàng với nhân
cách bất thường hoặc bình thường hay không, và kiểu bất thường nào học
thuyết có thể áp dụng tốt nhất? Phần lớn các học thuyết chúng ta thảo luận
sẽ giải thích và tiên đoán hiện tượng bất thường hay hơn những cái bình
thường. Thêm vào đó, một ít những dạng rối loạn về hành vi của thần kinh
thường được giải thích rộng rãi bằng những thuật ngữ lý luận hơn là những
biểu thị nghiêm trọng và sâu sắc của chứng loạn thần kinh. Tuy nhiên, một
số nhà lý luận tập trung riêng biệt những nỗ lực lý luận trên những cá nhân
bình thường để ngăn chặn những rối loạn về hành vi.
Cuối cùng chúng ta có thể đặt ra trong một học thuyết, bản chất của con
người là gì? Học thuyết đã truyền đạt gì về cảm tưởng chung đối với bản
chất con người? Nó chủ yếu là một bức tranh âm bản hay dương bản, hoặc
những nguyên tố bình đẳng hoặc là cả hai dạng biểu hiện? Căn bản của loài
người là tốt, thông minh, có tinh thần xây dựng hay chủ yếu là xấu, hầu như
ngu đàn và có tính tàn phá? Nhìn chung họ chủ động tốt, tiến bộ, và bình
thường, hoặc họ là bốc đồng, thoái hóa và bất thường? Có phải loài người
được thúc đẩy chỉ để tăng sự vui thú và tránh sự đau đớn hoặc trừng phạt,
hoặc họ có khả năng có được những động cơ cao hơn? Nếu nhấn mạnh trên
niềm vui và nỗi đau thì cái nào là chủ yếu? Hầu hết sự học hỏi có phải xảy
ra trong một nỗ lực để tránh sự trừng phạt, hoặc cho mục đích tìm kiếm
niềm vui lạc quan hơn? Nếu cảm xúc bị dồn nén, thì bản chất con người có
bao gồm chủ yếu những cảm xúc bi quan (như: giận dữ, căm ghét, sợ hãi)
hoặc những cảm xúc lạc quan (như: niềm vui, tình yêu, sự phấn chấn)? Dĩ
nhiên, chúng ta có thể hỏi những câu hỏi khác tương tự như thế. Quan điểm
của chúng ta là, dù hầu hết các nhà lý luận không định nghĩa rõ ràng bản
chất của con người, nhưng việc nghiên cứu cẩn thận học thuyết của họ sẽ
cung cấp một số những hiểu biết nhất định về bản chất này.