không xung đột này. Xung đột giữa cách tiếp cận này với cách tiếp cận
khác xảy ra khi đèn trắng được bật lên ở cả hai mục tiêu. Xung đột giữa
cách tiếp cận và sự tránh né xảy ra khi đèn đỏ và đèn trắng ở một mục tiêu
được bật lên. Xung đột giữa tránh né này với tránh né khác bao hàm hai
đèn đỏ, một ở mỗi mục tiêu. Xung đột kép giữa cách tiếp cận và tránh né
xảy ra khi tất cả bốn đèn đều cháy sáng.
Dù bài tập xung đột đơn giản, nhưng các đối tượng, các sinh viên cao
đẳng bình thường gặp khó khăn đáng kể khi giải quyết các xung đột theo
một cách đúng hay có ý nghĩa. Tốc độ các đối tượng di chuyển qua mê
cung bị xung đột bất kỳ làm giảm nhiều (ngoại trừ xung đột giữa cách tiếp
cận này với cách tiếp cận khác). Xung đột giữa tránh né này với tránh né
khác, xung đột kép giữa cách tiếp cận và tránh né đã làm giảm bớt tốc độ
lớn nhất. Ngoài ra, tỷ lệ sai lầm sẽ tăng khi khó khăn của xung đột ngày
càng tăng. Xung đột giữa tránh né này với sự tránh né khác và xung đột kép
giữa cách tiếp cận với tránh né gây khó khăn lớn nhất cho các đối tượng.
Người ta cũng thấy rằng tốc độ phản ứng gia tăng và tỷ lệ sai lầm giảm các
cuộc xung đột lặp đi lặp lại, cho thấy các mô hình phản ứng khác nhau là
kết quả của loại xung đột đang được trải nghiệm.
Thí nghiệm với xung đột ở con người công nhận một số giả thuyết xung
đột của Lewin. Ngoài ra, chúng chứng tỏ xung đột ảnh hưởng mạnh mẽ đến
hành vi và đúng với một số giả thuyết của Lewin lẫn Freud. Điều đó cho
thấy xung đột là một cơ sở chủ yếu và quan trọng cho sự lo lắng và chứng
loạn thần kinh.
Ở đây, chúng ta đã đưa ra ý thức về phạm vi, các loại nghiên cứu theo
kinh nghiệm do Lewin và mô hình học thuyết của ông tạo ra. Các bài điểm
sách chuyên sâu và chi tiết hơn về nghiên cứu Lewin, xem các chương tóm
tắt của Lewin và các đồng nghiệp của ông (Lewin, Dembo, Festnger, và
Sears 1944; Lewin 1954, Deutsch 1968, và Cartwright 1959).