trong hoạt động nhân cách. Freud cho là bản năng sống và chết là nền tảng
của tất cả hay phần lớn hành vi; Rogers lưu ý rõ ràng là tất cả các hành vi
được hiện thực hóa và tự hiện thực hóa thúc đẩy.
Mức độ ý thức. Giả thuyết của Freud cho rằng đa số hành vi quan trọng
của con người bị các động cơ vô thức chi phối và tiếp tục là một vấn đề gây
nhiều tranh luận nhất. Một mặt, nhiều người ca ngợi Freud là người đầu
tiên phát triển một học thuyết có hệ thống về động cơ vô thức; mặt khác,
ông bị chê trách về việc động cơ ý thức không có một vai trò trọng yếu
thích hợp. Khi tranh luận ban đầu nguôi đi và các chương trình nghiên cứu
trong các lĩnh vực (như: liên kết từ, nhớ và quên có chọn lọc, bảo vệ thuộc
tri giác) về khái niệm phân tâm học trong động cơ vô thức đang tiến hành,
ý nghĩa sâu sắc về đóng góp của Freud trở nên ngày càng rõ ràng đối với
các nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần học. Kết quả là, qua tất cả ba trường
phái tư tưởng chủ yếu, nhiều triết gia đã bắt đầu phát triển các học thuyết
về nhân cách bao gồm một khái niệm về động cơ vô thức. Trong phong trào
động lực tâm lý, đa số các triết gia đều ca ngợi “sự khám phá” của Freud về
các khái niệm vô thức và việc hợp nhất động cơ vô thức trong các học
thuyết của ông. Trong số các triết gia về hành vi, chúng ta thấy khái niệm
về động cơ vô thức ở Dollard và Miller. Trong khái niệm động cơ vô thức,
sự dồn nén được xem là một phản ứng được học tập và xung đột vô thức
được xem là cơ sở cho chứng loạn thần kinh. Trong học thuyết hiện tượng
học và chủ nghĩa nhân văn của Rogers, chúng ta cũng thấy khái niệm về sự
quyết định của hành vi vô thức, trong đó những kinh nghiệm không phù
hợp với sự tự nhận thức về chính bản thân hiện tại có thể bị giữ bên ngoài
nhận thức hay ý thức và tiếp tục ảnh hưởng đến hành vi bằng cách làm cho
cá nhân tự nhận thức về chính bản thân không chính xác.
Động cơ vô thức qua các trường phái tư tưởng chắc chắn có những khác
biệt. Rogers đặt tầm quan trọng lên động cơ vô thức ít hơn nhiều triết gia về
động lực tâm lý, dù học thuyết của ông dựa vào quan niệm này nhiều hơn
các học thuyết của Lewin, Skinner, hay Allport. Các triết gia (Lewin,
Skinner, Allport) đang nhấn mạnh nhiều hơn vào các yếu tố quyết định