Ba loại định nghĩa
Nếu tìm trong cách sách nghiên cứu về nhân cách, chúng ta sẽ thấy có
hàng trăm định nghĩa về nó, mỗi định nghĩa dựa trên những tính cách cá
nhân và thiên về tính lý thuyết của riêng từng tác giả. Allport (1961) đã
phân biệt những định nghĩa đó thành ba loại: ấn tượng bên ngoài, cấu trúc
nội tại, và quan điểm thực chứng.
Loại đầu tiên, ấn tượng bên ngoài, về cơ bản là sử dụng những ý nghĩa
rộng hơn của phần ngụy trang bên ngoài. Nhân cách được xem như gồm có
những đặc tính nào đó của từng cá nhân khi chúng được nhận ra từ người
quan sát; nhân cách là ấn tượng mà một cá nhân đã tạo ra được đối với
những người khác và thường liên quan đến năng lực xã hội hoặc sức thu
hút của cá nhân đó. Ví dụ, chúng ta có thể định nghĩa nhân cách là toàn bộ
n hững ấn tượng mà một cá nhân có được trên người khác. Allport chỉ ra
rằng chúng ta có nguy cơ lẫn lộn giữa nhân cách và danh tiếng. Cái khó với
những định nghĩa ấn tượng bên ngoài này dĩ nhiên là chúng không thể được
nhận dạng hoặc áp dụng với những người hướng nội, vì tiên đoán về hành
vi của từng cá nhân chỉ được thực hiện trọn vẹn thông qua việc tìm hiểu ấn
tượng xã hội mà cá nhân đó đã tạo ra.
Loại định nghĩa thứ hai xem nhân cách như là một cấu trúc nội tại – một
thực thể khách quan, hiện hữu. Đây là những định nghĩa mang tính bản
chất; khẳng định rằng nhân cách không chỉ là phần ngụy trang bên ngoài
mà còn là cấu trúc tâm lý hoặc cấu trúc tâm lý hiện hữu. Những định nghĩa
như thế xem nhân cách là một tổng thể của những đặc tính, những quá
trình, những hệ thống, hay là những nét tiêu biểu mang tính bẩm sinh, hoặc
do rèn luyện, hoặc có tính tâm lý, hoặc có tính lý học, hoặc có cả hai, và
được tổ chức thành một tổng thể động lực nào đó. Ví dụ, định nghĩa của
Linton (1945, tr.84): “Nhân cách là một tập hợp được hình thành từ những
quá trình và trạng thái tâm lý thuộc về một cá nhân”.
Mặc dù loại định nghĩa về nhân cách dựa trên loại hình cấu trúc nội tại
có thể chiếm tổng số lớn nhất, nhưng trong nội bộ, nhiều nhà tâm lý học đã