chung gói gọn trong sự tích lũy một
nhóm các từ ngữ biệt lập, trong một biệt
ngữ hay sáo ngữ kinh viện ra sao và
năng lực xét đoán tự nhiên bị cản trở bởi
sự tích tụ này đến mức độ nào, sẽ có một
phản ứng đi về hướng đối cực. Những
thuật ngữ chuyên môn bị rũ khỏi đầu óc;
“những từ định danh” tồn tại thay cho
danh từ; “những từ hành động” thay cho
động từ; học trò có thể “mang theo”
nhưng không chiết ra được từ ấy; chúng
có thể cho biết bốn lần năm là bao
nhiêu, nhưng không nói được bốn nhân
năm bằng bao nhiêu; v.v.. Một bản năng
lành mạnh chú trọng phản ứng này –
phản đối những từ ngữ chỉ cho thấy sự
giả trá chứ không phải cái thực chất của
ý nghĩa. Song cái khó chủ yếu không
phải nằm ở từ ngữ, mà nằm ở ý tưởng.
Nếu ý tưởng chưa được nắm bắt thì việc
dùng một từ quen thuộc hơn cũng chẳng
giải quyết điều gì cả; nếu ý tưởng được
nhận thức ra, tác dụng của thuật ngữ gọi
tên chính xác cho ý tưởng ấy có thể giúp
ích cho việc xác định ý tưởng đó. Những
thuật ngữ chỉ ra những ý nghĩa chính
xác nên được đưa ra một cách dè sẻn,
tức dùng từng ít một; chúng nên được
dẫn dắt đến một cách từ từ, và phải tốn
công bỏ sức chịu khó nhằm đem lại
những hoàn cảnh toát lên được tầm quan
trọng của sự chính xác trong ý nghĩa.