Lối suy nghĩ này, trong hình thức đối lập với lối suy tư tra vấn chặt chẽ, được lưu tâm đặc biệt trong
chương sau.
Ngụ ý thường được sử dụng khi một nguyên tắc hoặc chân lý tổng quát đem lại niềm tin
vào một sự thật khác; những cụm từ khác thường hay dùng để biểu đạt những trường hợp trong đó
có một sự việc hoặc sự kiện khiến chúng ta tin tưởng điều gì đó.
Mill, Hệ thống Logic, Lời giới thiệu
§5.
Locke, Về Sự dẫn lối của Hiểu biết, đoạn đầu tiên.
Ở đoạn khác ông nói: “Những thành kiến và
thiên hướng của con người thường áp lên chính bản thân họ… Thiên hướng gợi đến và ngả về diễn
ngôn những thuật ngữ ưa chuộng, từ đó đưa ra những ý tưởng hợp gu; mà phương cách này, cách đã
được coi là rõ ràng và có bằng chứng và do vậy được tân trang lại, mà khi ở trong tình trạng ban sơ
của mình, bằng cách sử dụng không gì khác ngoài những ý tưởng chính xác đã cả quyết, rốt cuộc
không hề được đón nhận chút nào.”
Về Sự dẫn lối của Hiểu biết, §3.
Tiểu luận bàn về Sự hiểu biết
của Con người, Quyển IV, Chương XX, “Về Sự chấp thuận sai hay Sai lầm.”
Nguyên văn: “The
guest bidden to the weddingfeast excused himself beause he had to prove his oxen.” – ND
Hobhouse, Trí óc trong Sự tiến hóa, tr.195.
Nhân vật trong tiểu thuyết của Charles Dicken, có tính
cách lạnh lùng vô cảm – ND.
Một đứa trẻ lên bốn hay năm tuổi liên tục nghe mẹ cất tiếng gọi về nhà
nhưng nó cứ tảng lờ như không nghe thấy, khi người ta hỏi có phải nó không nghe tiếng mẹ gọi thì
nó trả lời khá vô tư, “ồ, cháu nghe rồi, nhưng mà mẹ cháu vẫn chưa đến mức gọi cháu toáng cả lên”.
Những người có đầu óc về con số-hình dạng – nghĩa là, chiếu hiện những chuỗi số vào không trung
và nhìn thấy được chúng sắp đặt trong những hình dạng nhất định – khi được hỏi tại sao họ không
nói gì tới sự kiện trước đó, thường trả lời rằng điều đó chưa hề xảy đến với họ; họ cho rằng mọi
người đều có khả năng ấy giống như họ.
Đương nhiên, bất kỳ một môn học nào đều có cả ba phương
diện: ví dụ như trong môn số học, việc đếm, viết và đọc các con số, cộng nhanh, v.v. là những trường
hợp về kỹ năng thực hiện; các bảng trọng lượng và kích thước là về vấn đề thông tin, v.v..
Có nghĩa
là bất cứ điều gì liên quan tới thể chất và các chức phận tự nhiên của một cá nhân.
Những ví dụ này
được lấy từ các bài viết của học sinh tại lớp học, được giữ đúng nguyên văn.
Xem Vailati, Tập san
Triết học, Tâm lý và Các phương pháp Khoa học, tập V, số 12.
Đối với các ngữ đoạn được dùng
trong những luận thuyết logic, cái gọi là “những phương pháp đồng nhất” (sự so sánh) và “khác biệt”
(sự tương phản) phải đi cùng với nhau hoặc tạo thành một “phương pháp kết hợp” để có thể được áp
dụng hợp logic.
Các quá trình này được bàn sâu hơn trong Chương IX.
So sánh với nội dung nói về
phân tích.
Thuật ngữ ý tưởng cũng được dùng phổ biến để chỉ (a) một sự tưởng tượng đơn thuần,
hay (b) một niềm tin được chấp nhận, và cũng dùng để nói tới (c) bản thân sự xét đoán. Nhưng theo
logic nó biểu đạt một nhân tố nào đó trong sự xét đoán, như đã trình bày trong đoạn này.
Xem tác
phẩm của Ward, Những nhân tố Tâm linh của Nền văn minh, tr.153.
Do đó nảy sinh tất cả các