Sau này, Trần Trọng Kim - một nhà nho đầu thế kỷ XX vẫn còn kết
luận: “Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra
bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự
thoán đoạt và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An
Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ mà theo giặc,
để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân chịu nhục ở
đất nước người”
.
2. Về chính sách hạn điền
Qua Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục chép
nội dung chính sách hạn điền của Hồ Quý Ly (“Đại vương và Trưởng
công chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10
mẫu”) cho thấy chính sách hạn điền đã có phần không triệt để (trừ Đại
vương và Trưởng công chúa, họ có quyền sở hữu ruộng đất vô giới
hạn) mà mặt khác cũng không cho ta biết rõ số phận ruộng đất của
tầng lớp tôn thất, các loại quý tộc, quan liêu (dưới thành phần Đại
vương và Trưởng công chúa mà trên thứ dân) được giải quyết như thế
nào? Nếu hiểu quy định ấy theo cách hiểu của nhiều người là “trừ bậc
Đại vương và Trưởng công chúa ra, còn lại tất cả mọi người khác đều
không ai được có quá 10 mẫu ruộng” thì quả thật chính sách ấy đã có
sự cào bằng đồng loạt, đi ngược lại với trật tự xã hội đương thời từ lâu
đã tồn tại sự phân chia đẳng cấp rất nặng nề. Chính sách ấy không thể
làm thỏa mãn các tầng lớp tôn thất, quý tộc cũ của nhà Trần lại cũng
không thỏa mãn quyền lợi kinh tế của phe cánh quý tộc mới tập hợp
xung quanh Hồ Quý Ly.
Còn đối với các tầng lớp nông dân nghèo khổ không có ruộng? Sử
liệu không cho thấy có sự phân phối lại ruộng đất cho đối tượng dân
nghèo nào mà sau cải cách tất cả ruộng đất truất hữu đều tập trung hết
vào tay Nhà nước. Dù cho sự tập trung ruộng đất vào tay Nhà nước là
nhằm để thực hiện mục đích kinh tế - xã hội to lớn của Nhà nước
nhưng thời gian ngắn ngủi chỉ đủ cho người ta thấy việc cải cách của
Hồ Quý Ly không đem đến cho nông dân nghèo quyền lợi cụ thể, thiết