thực. Chính vì vậy mà khi tiến hành công việc khai báo, đo lại ruộng
đất của từng người, Hành khiển Hà Đức Lân đã nói mỉa rằng: “Đặt ra
phép này chỉ để cướp ruộng của dân thôi”
.
Như vậy, bước đầu thực hiện chính sách hạn điền, rõ ràng giới
vương hầu, quý tộc, giàu có thì bị tước mất ruộng đất còn tầng lớp nô
tỳ, nghèo đói thì chưa thấy được hưởng lợi lộc nào!
3. Về chính sách hạn nô
Từ năm 1397, thực hiện chính sách hạn điền, Nhà nước có thêm
được diện tích ruộng công đáng kể, trong khi đó trong tay các vương
hầu, quý tộc lại dôi ra số gia nô không có đất để canh tác. Tình trạng
mất thăng bằng giữa số lượng lao động trên diện tích đất bị thu hẹp
kéo dài 4 năm đã được nhà Hồ kịp thời điều chỉnh bằng chính sách
hạn nô ban hành năm 1401. Nếu chính sách hạn nô có mặt tích cực về
lâu dài là tạo điều kiện ban đầu để tiến tới giải phóng tầng lớp gia nô
thì trước mắt, việc tách rời họ với chủ ít nhiều cũng gieo vào lòng tầng
lớp dân nghèo khổ ấy một sự hoang mang, lo sợ, nhất là khi làm nô tỳ
cho vương hầu, quý tộc họ còn có thể chọn lựa, có thể được ở gần quê
hương, còn khi sung vào lực lượng quan nô của Nhà nước thì họ có
thể bị điều động đến bất cứ nơi nào theo yêu cầu của Nhà nước, có thể
phải đến làm việc ở những vùng đất xa xôi, biết đâu lại phải đến tận
những vùng hoang vu mới chiếm được... Thời ấy, mặc dù nhà đã có
chuẩn bị cẩn thận cho các công trình di dân khai khẩn đất mới, nhưng
nhà Hồ cũng không sao ngăn chặn được luồng dư luận hoang mang
trong dân chúng khi mà vào năm 1403 đã có chuyện không may xảy ra
đối với những người di dân: “Những người này, lúc đi đường biển gặp
gió bão, bị chết đuối nhiều. Lòng dân rất là náo động”
Một điểm rất đáng để ý về mặt tâm lý, đối với tầng lớp nô tỳ, không
phải lúc đó họ có thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc giải phóng họ
khỏi kiếp sống nô tỳ, như một nhà tư tưởng
lệ mẫt hết trong gông cùm, mất cả lòng mong muốn thoát khỏi vòng