lên sương. Họ cướp ngôi nhà Trần chẳng những vì Nghệ Hoàng không
thận trọng trước âm mưu của nó mà còn vì đã gây ra đầu mối nữa”
.
Ngô Thì Sĩ cũng đồng quan điểm ấy trong Việt sử tiêu án: “Vua Nghệ
Tông lúc trước lầm cho rằng Quý Ly là người giữ con cháu được, đến
lúc mất hết quyền, mới biết là trúng kế của nó, đến năm tàn sắp chết
mới tỉnh ngộ, xem trong đồng tính, vây cánh tôn thất không còn ai, xét
ngoài triều thần, thân đảng của tên gian thần đã bền chắc, không còn
sao được, hối thì đã muộn
. Và lời cẩn án ghi trong Việt sử thông
giám cương mục đã xác nhận hiện tượng bằng đảng dưới tay Hồ Quý
Ly: “Ở lộ đã có chức An phủ mà lại còn đặt Đô hộ và Đô thống, ở phủ
đã có chức Trấn phủ mà lại còn đặt Tri phủ và Thái thú, có lẽ cốt để
cho công việc được thống nhất mà các viên quan đứng đầu phải kiêm
việc trông coi, vì thế, nên đều dùng các viên đại thần giữ những chức
ấy. Chẳng qua lúc bấy giờ Quý Ly sắp cướp ngôi vua nhà Trần, cho
nên đặt ra những chức quan trọng đại, để phân phối công việc cho các
người trong đảng mình”
Cuộc tranh chấp giữa các bằng đảng cuối cùng đưa đến sự thắng thế
về phía phe nhóm của Hồ Quý Ly. Chính bằng đảng của Hồ Quý Ly
giúp ông điều kiện để tóm lấy chính quyền và thực thi đường lối của
ông khi triều đình chuyển sang tay họ Hồ. Để việc lên ngôi vua được
danh chính ngôn thuận, bằng đảng của Quý Ly đã hướng dẫn các tôn
thất nhà Trần và các quan triều dâng biểu khuyên Quý Ly lên ngôi.
Quý Ly khéo “từ chối” đến nỗi các quan phải dâng biểu tới 3 lần,
Quý Ly mới chịu lên ngôi... Sự kiện ấy cho thấy bằng đảng đã trở
thành một lực lượng chính trị trong bóng tối rất mạnh, có thể chi phối
triều đình. Song cũng vì bằng đảng của Quý Ly chưa thể vận động
được sự đồng tình ủng hộ của số đông quần chúng nhân dân lúc bấy
giờ nên không đủ sức bảo vệ sự tồn tại lâu dài của thế lực nhà Hồ.
Trong lịch sử nước ta, hiện tượng bằng đảng thực ra không phải đến
cuối thế kỷ thứ XIV mới có, mà nó đã xuất hiện trên chính trường
trước đó hàng mấy trăm năm. Năm 1009, nhân cơ hội Lê Long Đĩnh