Đó cũng là thái độ chung của quần chúng trong thời buổi học thuyết
Khổng - Mạnh là tư tưởng chính thống.
Thật vậy, do thành kiến “Nho giáo” khắt khe, trọng chính thống, có
thể nói xã hội thời bấy giờ sẵn sàng kết án tất cả những ai nắm chính
quyền bằng con đường khác hơn là truyền tử lưu tôn trong triều đại đã
sẵn có; phải xử sự chính danh theo lối “quân quân, thần thần, phụ phụ,
tử tử” dù cho ông vua tại vị có thế nào đi nữa.
Là một nho sĩ, hẳn Hồ Quý Ly cũng dư biết điều đó. Nhưng trách
nhiệm canh tân đất nước đã và đang đè nặng lên vai ông trong khi
đẳng cấp nho sĩ và đẳng cấp quý tộc vì quyền lợi riêng tư bị đụng
chạm, vì óc công thần, thiển cận, không muốn thấy vua bị lấn quyền...
Họ đã cấu kết với nhau hết lòng dựng lên một bức tường thành kiến
kiên cố để vừa bảo vệ triều đại vững vàng vừa bảo vệ những quyền lợi
mà họ được hưởng trong chế độ đó. Chính đó là chướng ngại vật trước
mọi cải cách cần thiết cho đất nước.
Triều Trần thực sự xuống dốc từ khi Thượng hoàng Trần Minh
Tông qua đời, rồi các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung
Ngạn... tiếp nối mất đi, gian thần lộng quyền đến nỗi danh nho Chu
Văn An phải dâng Thất trảm sớ xin chém 7 kẻ quyền thần nhưng Dụ
Tông không nghe, ông phải từ quan về ẩn dật ở núi Chí Linh... Từ đó,
Dụ Tông tha hồ rượu chè, cờ bạc, trụy lạc, trong khi giặc cướp nổi lên
khắp nơi, nạn đói hoành hành, dân chúng lâm vào tình cảnh vô cùng
cơ cực. Tình hình bấy giờ thật thê thảm!
Rồi tiếp theo đó, sau khi Dụ Tông mất (1369), các vua Nghệ Tông,
Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông, Thiếu Đế lần lượt kế vị ngai vàng.
Các vua ấy hầu hết là bất tài, nhu nhược, chỉ giữ hư vị... Trước khi
Quý Ly xuất hiện nổi bật trên chính trường, nhà Trần suýt mất ngôi về
tay họ khác (Dương Nhật Lễ tiếm vị từ tháng 6 năm Kỷ Dậu - 1369
đến tháng 11 năm Canh Tuất - 1370). Nhưng một khi nhân vật Hồ Quý
Ly ngày càng gia tăng uy thế trong bối cảnh triều chính ấy thì ông
cũng luôn luôn bị những người có thế lực đồng thời ganh ghét và mưu