rượu vang. Anh ta không nằm nữa mà ngồi trên giường, tựa lưng thoải mái
vào chiếc gối. Khi chúng tôi bước vào, anh ta đang uống cà-phê.
Chúng tôi chào dè dặt, nhưng Cuốc trả lời rất to: - Chào các chính ủy!
- Và anh ta uống cạn cốc cà-phê, hút thuốc, sửa lại cái gối. - Các ông ngồi
đây không lâu chứ? Chứ không thì tôi lại buồn ngủ đấy!
- Tất cả còn phụ thuộc ở ông, ông Cuốc ạ. Phụ thuộc ở chỗ ông có nói
thật hay không. - Tôi trả lời, vẻ rất ôn hòa và ra hiệu cho Ca-bi-sếch bật
máy ghi âm.
- Tôi biết rằng trước mắt tôi đang có nguy cơ bị tù ở nước các ông vài
năm, nhưng tôi xin cam đoan là tôi đã nói hết sự thật với các ông hồi đêm.
Khi xét xử cả một nhóm, hình phạt cũng sẽ nhẹ hơn một người.
- Tôi tán thành, nhưng ta hãy vào việc đã. Ông đã bịa ra chuyện tờ
giấy mà Vi-ne đã đốt đi phải không?
Anh ta nhìn tôi không hiểu, rồi nhìn Ca-bi-sếch, thở dài:
- Các ông lại giăng thêm cái bẫy gì thế? Và để làm gì? Những gì tôi
biết, tôi đều đã kể. Và kể thật. Các ông còn muốn gì ở tôi nữa?
- Chúng tôi muốn biết trên giấy tờ mà Vi-ne tìm được trong sổ tay của
Pích-le và đốt trước mặt ông, có ghi những gì?
- Thì tôi đã nói rồi. Nô-vắc và số điện 395.14.
- Vâng, ông đã nói. Nhưng hoặc là ông bịa, hoặc là ông nhớ nhầm.
Pích-le không thể gọi số điện ấy vì nó đã bị cắt từ hai tuần nay. Chúng tôi
cũng có tìm ra một ông Nô-vắc, nhưng ông ta có số điện thoại hoàn toàn
khác. Có đúng là ông đã nói thật không?
Cuốc ngồi thẳng dậy, vứt điếu thuốc lá hút dở vào gạt tàn và nói:
- Tôi không thể nhầm được. Các con số, tôi nhớ rất chính xác. Các ông
có thể tin tôi điều đó. Vi-ne cũng nhờ tôi nhớ hộ tên và số điện thoại ấy, vì
giữ lại tờ giấy là rất nguy hiểm. Còn người gặp trong quán cà-phê, trong
tương lai sẽ có thể có ích. Chẳng hạn, nếu như trên cuốn mi-crô-phim