bèn tô lại thật khớp mẫu chìa khóa ấy với kích thước chính xác, và sau đó
nhờ một người bạn có nghề cơ khí làm cho mình một chiếc chìa khóa giống
hệt thế.
Lần gặp may thứ hai là vào mùa hè năm ngoái. Hắn đã mấy lần đề
nghị được đi phép thăm bà chị đang sống ở Viên, thủ đô Áo. Cuối cùng,
hắn được toại nguyện. Hắn đã sang thành phố nằm trên song Đa-nuýp kia
hai tuần, và khi về nhà thì dắt theo rất nhiều tiền cùng với một chiếc máy
ảnh “Ko-đắc” cỡ nhỏ.
Hắn vẫn cứ chiều chiều đến Viện làm việc như cũ, và sáng sớm vừa rõ
mặt người là trở về nhà.
Vào tháng Hai, kế hoạch đã dự định được thực hiện. Hắn có rất nhiều
thì giờ thuận lợi và đã bình tĩnh mở két, chụp lại tất cả tài liệu miêu tả ắc-
quy và các bản vẽ. San đó, hắn gửi thư cho bà chị ở Viên, thông báo rằng
mọi việc ở gia đình hắn cũng như sức khỏe vợ hắn rất tốt. Đó chính là ám
hiệu quy ước là tài liệu đã chuẩn bị xong. Hắn đã hợp đồng như vậy ở Viên,
với đại diện của Công ty hỗn hợp “M.W.F.”.
Mọi chuyện xảy ra đúng như dự tính. Nô-vắc đem phim cất trong
chiếc phong bì đến quán “Xla-vi-a”. Đúng mười giờ, một người đàn ông
còn trẻ, đẹp trai, khỏe mạnh, vào quán cà-phê. Nô-vắc đến gần anh ta, và
nói một câu đã hẹn trước qua điện thoại, để hỏi mượn tờ báo. Người kia trả
lời đúng ám hiệu: “Xin mời ông, đằng nào thì tôi cũng sẽ rời khỏi đây trong
năm phút nữa thôi mà!”. Nô-vắc đặt cái phong bì xuống dưới xấp báo,
nhưng lại cầm theo ở xấp báo ruột phong bì khác để sẵn: trong đó 5.000
đồng mác Tây Đức và 3.000 đô-la Mỹ.
- Thế ngộ nhỡ không phải là anh ta? Anh không sợ là cuốn phim có
thể rơi vào tay kẻ khác à?
- Không. - Lê-ô-pôn Nô-vắc trả lời. Chúng tôi đã hẹn rất chi tiết.
Người gọi điện cho tôi đã nói đúng tên ông anh rể tôi và nói: “Đúng 10 giờ
đấy. Tôi sẽ mặc một cái áo vét xanh da trời quần màu ghi, trên ca-vạt xanh