đi mất, và Vi-ne sẽ mất dấu về cuộc gặp gỡ kia. Tôi ngồi ở máy theo dõi
suốt đêm, từ Thứ Ba sang Thứ Tư, nhưng Pích-le vẫn ngủ rất say.
Như tôi đã nói, khi Pích-le rời phòng, Vi-ne đi theo anh ta. Vào chiều
Thứ Hai, ông ta đi xem ca kịch tạp kỹ, Thứ Ba đi xem phim, còn sáng hôm
qua thì đi theo Pích-le và nhóm cầu thủ đi dạo phố Pra-ha. Sau bữa ăn trưa,
Vi-ne đưa cho tôi vé đi xem đá bóng. Bản thân ông ta không đi, và nói rằng
ông ta còn bận việc. Buổi chiều, khi tôi về phòng thì ca-mê-ra đã được tháo
ra, va-li đã xếp sắp xong. Vi-ne nằm trên giường.
Ông ta đẩy tôi đi ăn chiều và bảo rằng tôi không cần về phòng trước
nửa đêm. Ông ta nói rằng là ông ta rất bận. Đêm đó ở quầy rượu, tôi nghe
tin Pích-le bị đầu độc. Tôi nghĩ rằng Vi-ne có thể dính dáng đến vụ này.
Khi tôi kể cho ông ta tin đó, ông ta không hề phản ứng gì. Sáng hôm sau,
tôi lại nói về chuyện đó.
- Và ông ta bảo sao?
- Ông ta nhảy bổ đến trước mặt tôi, gào lên rằng tôi hãy liệu giữ mồm
giữ miệng, nếu như tôi không muốn dính vào một chuyện bẩn thỉu. Tôi đi
ăn sáng. Rồi ông ta cũng xuống và đã tỏ ra bình tĩnh hơn. Ông ta nói rằng
tôi được tự do và có thể không cần vội về khách sạn. Ông ta sẽ chờ tôi
khoảng một tiếng. Chúng tôi cùng ăn trưa và đi đến nhà máy. Còn những
chuyện sau đó, các ông đã biết cả…
Có thể thấy rõ rằng Cuốc đã nghĩ ra rất cẩn thận lời cung khai của
mình. Tôi không khẳng định là anh ta hoàn toàn thêu dệt cả, nhưng ngược
lại, chúng tôi hoàn toàn không cần gì phải bám níu vào những lời ấy. Tôi
chỉ tin chắc rằng anh ta nói dối khi đả động đến vai trò của bản thân mình
trong chuyện ấy.
- Như vậy là cái khuy áo mạ vàng trên áo vét của Pích-le, ông không
nhìn thấy ở Vi-ne chứ?
Anh ta nhìn tôi kinh ngạc và lắc đầu.