Không nói tiếng nào, hắn cầm cây gậy tre quất túi bụi vào mặt cậu bé.
Hoàn toàn bất ngờ, cậu bé phản ứng dữ dội. Đầu tiên cậu thoi lại hắn, thêm
một cú đấm khá mạnh làm tên lính ngã xuống thềm. Chỉ trong chốc lát
Maha Chai trở thành một đám hỗn loạn. Căn phòng đầy lính gác và những
lính áo xanh, chúng cố kiềm cậu bé lại cho đến lúc cậu chịu đứng yên.
Tên lính bị đánh đứng lên và bảo những tên khác mang cậu bé vào căn
phòng ở cuối tòa nhà. Suốt một tiếng đồng hồ sau đó, chúng tôi đều nghe
tiếng hét của cậu bé đang bị đánh một cách không thương tiếc kia. Sau đó
cậu bị đưa sang toà nhà số 2.
Suốt ba tháng chúng tôi không gặp cậu ta và tưởng chừng không bao giờ
gặp lại nữa, nhưng có đấy. Cậu bé bây giờ như một bộ xương biết đi. Da nó
xám xịt như da voi, tróc từng mảng như thể bị ngâm mấy ngày liền trong
nước nóng trước khi đem ra chà xát bằng giấy nhám. Lúc đi, người nó gập
cong lại như đang trong tư thế ngồi chồm hổm. Hai con mắt thì phù đến độ
trông chúng như hai vết rạch trong lớp thịt mỡ. Rõ ràng nó đã bị nhốt vào
một cái lồng bằng gỗ nhỏ xíu chỉ đủ cho một người nằm cuộn mình như trái
banh. Họ đã treo cái lồng lên trần nhà bằng móc xích, rồi dùng chiếc xà rông
phủ lên đến nỗi ánh sáng giả tạo từ những nơi tối tăm của căn phòng cũng
không thể nào xuyên qua được thế giới của nó. Nó ở trong đấy suốt ba tháng
trường để suy gẫm về tính khí của mình.
Tên lính, người bị đánh cũng có thời gian để suy gẫm về tính khí của hắn,
nhưng hắn chẳng có một kết luận nào mới mẻ sau ba tháng. Vừa thả thằng
bé ra, hắn đã bảo mấy tên lính khác lôi thằng bé ra sân và giữ mặt nó hướng
thẳng về mặt trời chiều gay gắt.
Có lẽ chúng cũng đã bỏ thằng bé vào trong chiếc lồng vĩnh viễn. Thời
gian nó trở lại với chúng tôi quá ngắn ngủi. Tôi không biết điều gì đã xảy
đến cho cậu bé sau này. Nó được đưa đi rất xa vài ngày sau đó, chúng tôi
không bao giờ gặp lại. Không ai hỏi thăm về nó và thật ra cũng chẳng có gì
để hỏi thăm.
*