“Vì thế đừng nói với tôi về chuyện đó nữa. Đừng nói với tôi là anh sẽ
bắt ai và tại sao. Đi lên và nói với vợ tôi ấy. Anh sẽ tìm thấy bà ấy trong
phòng ngủ của thằng bé. Anh không thể không tìm thấy bà ấy, tiếng ồn là
do hai người họ tạo nên.”
Wexford rất mừng vì được bỏ lại người đàn ông bất hạnh, có nỗi buồn
gợi lên trong anh lòng thương hại gần như khiến những giọt lệ phải dâng
trào trong mắt. Chuyện xảy ra với nhà Marshalson mà anh đã chứng kiến
cũng đang lặp đi lặp lại với những bậc cha mẹ mất con khác. Sau cú sốc
khủng khiếp ban đầu, họ dường như đã chỉnh đốn, cân bằng lại bản thân và
tập quen với nỗi mất mát của mình. Nhưng sau một thời gian, nhiều tuần
hay thậm chí nhiều tháng, toàn bộ hiện thực về những gì họ đã phải chịu
đựng lại kéo đến bao vây họ.
Một sự phiền muộn đau thương, ngu si đần độn, lãnh đạm, cay đắng và
không còn hy vọng có thể khuây khỏa được, cuốn họ vào trong vòng xoáy
tàn nhẫn của nó, sự giam cầm mà họ không bao giờ tự mình thoát ra được
trong suốt cả cuộc đời. Những người không còn khóc kể từ khi họ là những
đứa trẻ sẽ bật khóc nức nở khi nhắc đến tên của một người đã khuất.
Anh bắt đầu bước chầm chậm lên lầu. Anh đã từng lên đây trước kia
nhưng chỉ để lục soát phòng của Amber. Cánh cửa căn phòng đó đã đóng
nhưng một cánh cửa khác ở phía cuối hàng lang đang mở, ánh sáng từ bên
trong chiếu rọi ra. Có một cái gì đó ngập tràn hy vọng và ấm áp đến kỳ lạ
bắt nguồn từ thứ ánh sáng hắt ra từ cánh cửa đang mở vào khoảng không
tăm tối. Những giọng nói lọt vào tai anh, là của bà ta và Brand, giọng cười
đùa vui vẻ, giọng trẻ con hân hoan. Anh đứng im lặng ở lối vào, nhìn họ và
khi thấy khuôn mặt của họ, anh đã hiểu.
Điều này làm anh cảm thấy sốc đến nỗi trong chốc lát anh khó thốt nên
lời.