của “những gì là có ý thức” thì đơn giản chỉ là để đùa nghịch tàn phá với
một, và là một mảnh duy nhất của kiến thức trực tiếp và chắc chắn mà chúng
ta có về não thức. Và sau cùng tất cả, một ý thức trong đó một người không
biết gì xem ra với tôi phi lý nhiều hơn rất nhiều so với một gì đó thuộc tâm
thần vốn là vô thức. Cuối cùng, nỗ lực này để đánh đồng những gì là không
được chú ý với những gì là vô thức rõ ràng được thực hiện mà không tính
toán đến những điều kiện năng động tham gia, vốn đó là yếu tố quyết định
trong việc hình thành quan điểm tâm lý phân tích. Vì nó bỏ qua hai sự kiện:
thứ nhất, rằng đó là cực kỳ khó khăn và đòi hỏi nỗ lực rất lớn lao để tập
trung đầy đủ sự chú ý vào một cái gì đó không được chú ý thuộc về loại này;
và thứ hai, rằng khi điều này đã đạt được, những suy nghĩ mà trước đây vốn
đã không được chú ý thì không được ý thức nhìn nhận, nhưng thường có vẻ
hoàn toàn xa lạ, và trái ngược với nó, và ngay tức thời bị nó chối bỏ. Vì vậy,
tìm kiếm ẩn náu từ vô thức trong những gì hầu như hiếm không được chú ý,
hay không chú ý, sau cùng chỉ là một dẫn xuất rút ra từ niềm tin đã có định
kiến vốn nó liên quan đến sự nhận diện của tâm thần và hữu thức như giải
quyết một lần và cho tất cả.]
[10] Ego: (das Ich, nghĩa đen trong Anh ngữ là “I”): cái Ta - Freud giới thiệu
từ ngữ này lần đầu tiên năm 1895 trong “Project” để chỉ một tập hợp của
những tế bào thần kinh có kết đọng lâu dài năng lực tinh thần (a set of
permanently cathected neurons), nó có chức năng ngăn cấm trực tiếp sự lưu
truyền về số lượng của kích thích dọc theo những đường (vận động tâm lý)
nguyên thủy. Chúng đạt được điều này bằng cách cung cấp một kênh phụ,
thông qua đó năng lượng này được chuyển hướng. Một hệ thống như vậy là
khó để hình dung chính xác từ mô tả của Freud, nhưng ông rõ ràng hình
thành vai trò của nó, tạm có thể kể một vài để mường tượng như - làm giảm
xác suất của những liên kết đau đớn, cho phép sự cấm đoán về buông xả trực
tiếp qua hành động, và cho phép một sự phân biệt chọn lọc với ký ức.
[11] Association: là sự tiến trình tâm lý liên kết những ý tưởng, khiến từ một
ý tưởng này chúng ta tự động nhớ, hay gợi lại được ý tưởng khác; chúng ta
từ A nhớ đến B, vì chúng ta liên kết A với B, hay giưa A và B có sự liên kết
nào đó - ngược lại là free association là một phương pháp thăm dò vô thức