Maria gật đầu, vẻ cam chịu và hôn tạm biệt tôi. Nàng không sao hiểu nổi
sự ham thích trật tự này của tôi, thực tế, nàng thấy nó gần như điên khùng.
Oskar có thể thông cảm nỗi băn khoăn của nàng vì bản thân hắn cũng bối
rối khi phải giải thích về thói câu nệ của hắn trong việc sưu tầm trống thiếc
nát. Điều kỳ lạ nhất là hắn không bao giờ muốn để mắt đến cái mớ đồng nát
trong hầm khoai tây ấy lần nữa chừng nào hắn còn sống. Bởi vì, qua kinh
nghiệm, hắn biết rằng con cái thường coi rẻ những bộ sưu tập của cha
chúng và thằng con trai Kurt của hắn khá lắm cũng chỉ nhìn bằng con mắt
dửng dưng tất cả những cái trống thảm hại mà một ngày kia nó sẽ được
thừa kế.
Vậy thì cái gì khiến tôi cứ ba tuần một lần lại dặn dò Maria những điều
mà nếu được thi hành đều đặn thì một ngày kia sẽ chiếm hết chỗ trong hầm
nhà chúng tôi và đẩy khoai tây mùa đông ra ngoài?
Cái ý thỉnh thoảng vẫn loé lên trong đầu tôi, tuy ngày càng thưa thớt hơn,
là biết đâu một ngày kia một bảo tàng nào đó lại chẳng quan tâm đến những
cái trống rách của tôi, cái ý ấy chỉ đến với tôi sau khi mấy tá trống đã được
xếp xó dưới hầm; do vậy nó không thể là khởi nguồn tạo nên đam mê sưu
tầm của tôi. Càng nghĩ, tôi càng ngả về một cái động cơ rất đơn giản: nỗi
sợ, sợ thiếu, sợ rằng một ngày kia trống thiếc có thể bị cấm, sợ rằng số
trống hiện có có thể bị phá huỷ. Một ngày kia, Oskar có thể sẽ buộc phải
bới lên vài cái ít hư hại nhất đem chữa lại dùng tạm để vượt qua một thời kỳ
không trống ảm đạm và khủng khiếp.
Các bác sĩ ỏ bệnh viện tâm thần cũng đưa ra một cách giải thích tương tự,
tuy họ diễn đạt bằng những lời lẽ khác. Bác sĩ Hornstetter (nữ) thậm chí còn
muốn biết đích xác ngày nào tháng nào tôi bắt đầu phát sinh mặc cảm. Tôi
nói ngay với bà: ngày 9 tháng 11 năm 1938 vì đó là ngày tôi mất Sigismund
Markus, người cung cấp trống cho tôi. Sau khi mẹ tôi chết, việc kiếm một
cái trống mới khi tôi cần, cũng đã bắt đầu khó khăn: không còn những chiều
thứ năm đến Ngõ Binh Công Xưởng, Matzerath chỉ quan tâm đến việc cung