quyết anh phải thua ở hiệp ba thì ngài Brant ấy còn làm gì được nữa? Chỉ cần
ông ta nói một tiếng ‘không’ thôi là lũ đàn em của Petelli sẽ cho ông ta sang
bên kia thế giới ngay. Mà ông ta còn vợ, còn con…”
“Thôi, được rồi Henry, không nói nữa. Có thể anh nói phải. Song tôi vẫn
không muốn hắn quanh quẩn quanh tôi. Sao, anh không thể làm phò tá cho
tôi sao?”
“Một khi người ta đã quyết định anh phải thua ở hiệp ba thì còn cần gì đến
người phò tá cơ chứ?” Henry trả lời buồn bã.
“Nhưng nếu tôi không chịu nằm yên thì sao? Nếu tôi xoay xở khôn ngoan
trong trường hợp đó?”
Henry nhìn quanh, lo lắng tựa hồ như sợ có ai đó nghe lỏm.
“Đó là một sự điên rồ!” Henry nói vẻ hoảng sợ. “Hãy bỏ cái ý nghĩ ấy đi!”
“Suy tính một chút cũng chẳng hại gì? À, mà cái cửa sổ này dẫn đến đâu
ấy nhỉ?”
“Không nên. Bỏ cái ý nghĩ điên rồ ấy đi! Đừng nói đến chuyện đó nữa.”
Tôi nhảy khỏi bàn mát-xa đến bên cửa sổ. Dưới kia, cách cửa sổ chừng hai
chục mét là bãi đậu xe. Tôi thò đầu ra ngoài. Dưới cửa sổ, dọc theo bức tường
là một cái ống thoát nước. Leo theo cái ống đó xuống đất không khó nhưng
sau đó trốn đâu?
Henry lôi tôi khỏi cửa sổ.
“Lại nằm lên giường ngay! Trước trận đấu không được đùa!”
“Henry, anh nghĩ là mấy thằng người Ý ấy sẽ độp tôi?”
“Tất nhiên là sẽ độp. Chuyện đó thì rõ rồi. Hai năm trước đây, chúng đã hạ
sát Brant vì tên này đã lừa Petelli. Chúng cũng từng đánh thành tật Benni
Mason vì tên này đã để thua trong khi Petelli lệnh phải chịu đựng cho được
mười hiệp. Chúng cũng đã tạt axít vào mặt Tige Friman vì tay này dám thắng
ở hiệp thứ bảy…”
Tôi đang mải nghĩ về những điều Henry nói thì có tiếng của Brant.
“Đã đến lúc phải thượng đài.”
Henry giúp tôi mặc cái áo choàng đỏ thẫm của Petelli tặng. Đó là một cái
áo choàng thật đẹp, có thêu mấy chữ màu trắng: “Johnny Farrar”. Giá như
trước kia, cái áo khoác đó đã làm tôi hãnh diện và hạnh phúc nhưng giờ đây
nó chỉ làm tôi bực bội.
• • •