thể đi lấy hành lý về cho ngài.”
Tôi lấy hai tờ mười đô la ném lên quầy.
“Sáng mai tôi sẽ tự mình đi lấy hành lý. Tốt hơn hết là ông chỉ phòng cho
tôi đi.”
Người đàn ông lấy cái chìa khóa treo trên tường rồi đẩy quyển sổ đăng ký
khách trọ với cây bút ra trước mặt.
Tôi đăng ký với cái tên John Krosbi.
Ông ta ném về phía tôi một cái nhìn không biểu lộ điều gì, nhấn vào một
cái nút và quay đi.
Mấy phút sau, ông già phục vụ phòng với khuôn mặt khó ưa xuất hiện và
lấy chìa khóa từ tay người quản lý. Ông ta mặc một bộ đồng phục cũ rích,
đầu đội cái mũ cát két cũ sờn.
“Tầng hai,” ông ta nói. “Anh không có hành lý à?”
“Không.”
Ông ta dẫn tôi vào phòng rồi bật đèn.
“Phòng tắm cuối hành lang. Vòi sen không làm việc, đừng dùng.”
Căn phòng trông tồi tàn: một cái giường cũ, cái bàn, cái tủ nhỏ và một tấm
thảm cũ sờn cạnh giường.
“Chả khác gì điện Buckingham!” tôi đùa.
“Sang hơn là khác ấy chứ,” ông ta nói rồi để chìa khóa lên mặt tủ và nhìn
tôi chờ đợi. Lúc tôi chìa ra một đô la ông ta trợn trừng mắt tưởng như suýt
ngất đi vì sung sướng.
“Thưa, ngài còn cần gì nữa không ạ?” ông ta hỏi vẻ mặt phấn chấn hẳn ra.
“Nếu ngài đột nhiên thấy buồn thì tôi có sẵn danh bạ điện thoại của một lô
người đẹp rất dễ thương…”
“Ra ngoài đi.”
“Nếu ngài đổi ý cứ gọi điện xuống dưới quầy gọi tôi. Tên tôi là Maddaks.”
“Ra ngoài đi, nhanh lên!”
Chờ cho ông ta đi khỏi, tôi ngồi xuống giường, bỏ mũ ra. Tôi cảm thấy
mệt rã rời, mắt cứ ríu lại.
Tôi ngồi ngáp, không nghĩ ngợi gì, cứ xoay xoay cái mũ trên tay. Tôi có
thói quen giấu những tờ mười đô la dưới vành mũ. Giấu xong rồi tôi lại quên.
Và rồi khi mắc cạn tôi có để xài như một vật cứu tinh. Lỡ đột nhiên người
chủ của chiếc mũ này cũng có thói quen tương tự thì sao, tôi bỗng nghĩ thế.
Tôi thò tay vào vành mũ, lôi một tờ giấy mỏng rồi giở ra. Đó là một tờ hóa