Cực tây của hòn đảo.
Đó là “phá hủy những cột trụ mà hiệp ước với Alexander được khắc trên
đó”. Arrian diễn đạt đoạn này có phần lỏng lẻo: hiệp ước, như trong trường
hợp của Tenedos (xem phần sau trong quyển này), chắc chắn được ký kết
giữa “Alexander và những người Hy Lạp”, chẳng hạn người Mitylene là
thành viên của Liên minh Corinth.
Được gọi theo tên của một người Sparta, người chịu trách nhiệm chủ yếu
trong việc đàm phán hòa bình năm 386. Hiệp ước này cũng thường được
gọi (một cách chính đáng) là Hiệp ước Hòa bình của Hoàng đế, vì hoàng đế
Ba Tư đã giành quyền kiểm soát các thành bang Hy Lạp ở Tiểu Á, trong
khi điều khoản lại quy định rằng tất cả những thành bang ở Hy Lạp nên có
quyền tự trị, ngăn chặn việc sản sinh nên bất kỳ một đế chế thù địch nào.
Thymondas đã mang số lính này, di chuyển bằng đường biển, tới Tripolus
và từ đó, nhập vào lực lượng của Darius tại Sochi. Họ đã chiến đấu tại bờ
Issus. Sự rút lui hiệu quả của đội quân này đã phá hủy bất kỳ cơ hội tấn
công thành công nào của hải quân.
Alexander đã quyết định giải tán hạm đội, một lực lượng mà chắn chắn sẽ
khiến ngài phải tốn nhiều tiền bạc để duy trì, vào thời điểm Memnon qua
đời.
Trong thời đại của Alexander, điều này ám chỉ Đế chế Ba Tư.
Phrygia nhỏ hơn. Vùng Phrygia lớn hơn (sau này là Galatia) do Antigonus
cai trị (xem Quyển một).
Có lẽ đây là một thủ lĩnh địa phương. Sau đó không nghe được thông tin
nào khác về nhân vật này.
Ngày nay là Golek-Boghaz, con đường chính băng qua dãy Taurus, giữa
Cappadocia và Cilicia. Xem Xenophon Anabasis 1.2.20-1.
Trái ngược với cách đối xử của ngài với Philotas khoảng bốn năm sau (xem
Quyển ba).
“Cổng thành Syrian” (còn được gọi là cổng thành “Assyria” trong phần
sau) là con đường Beilan, băng qua dãy Amanus, phía đông nam của
Alexandretta.
Chẳng hạn kiểu viết chữ hình nêm.