giây sau, chúng lại ướt nhoẹt. Tôi lại lau. Nhưng chuyện ấy cứ
tái diễn liên tục, liên tục. Không phải một, hai giọt vớ vẩn nữa,
mà nước chảy hẳn thành dòng giàn giụa.”
“Chả mấy chốc, các đồng nghiệp tốt bụng đã vây quanh tôi.
Họ chen chúc trong ô làm việc nhỏ bé của tôi, hết lời vỗ về an ủi,
cứ ngỡ tôi ôm mối đau thương nào đó. Họ đồ rằng việc đọc
những bài viết về thực trạng đáng buồn của đất nước hết ngày
này qua ngày khác – về nạn tham nhũng, thiên tai địch họa, rồi
khủng hoảng kinh tế – rốt cuộc đã làm tôi suy sụp. Rằng tôi
đang vỡ òa vì đau buồn và tuyệt vọng.” “Họ nhầm, dĩ nhiên. Tôi
chẳng đời nào để cảm xúc xen vào công việc chuyên môn. Cậu
nghe rõ nhé, tôi không nói muốn làm nghề sửa bản in thì phải
vô cảm. Tôi không phủ nhận rằng bản thân tôi thường xuyên
cảm thấy buồn muốn khóc vì những gì tôi đọc được –chuyện về
những cảnh đời bất hạnh, bạo lực đẳng cấp, chính phủ nhẫn
tâm, công chức cửa quyền hách dịch, cảnh sát tàn bạo hung ác.
Tôi dám chắc rất nhiều người trong chúng ta cũng có chung
cảm giác này, và một cuộc bộc phát cảm xúc là điều khá dễ hiểu.
Song một trường hy sinh dai dẳng sẽ hóa trái tim thành sỏi đá,
như nhà thơ tôi yêu thích đã viết.”
“Ai thế ạ?”
“W. B. Yeats. Và tôi nghĩ đôi khi ta cần kìm nén trong những
hành vi thông thường, để có thể tiếp tục cuộc sống.”
“Cháu cũng không dám chắc,” Maneck nói. “Chẳng phải cứ
thẳng thắn bày tỏ sẽ tốt hơn là giấu giếm hay sao? Có lẽ nếu tất
cả dân chúng trong nước đều giận dữ hoặc đau khổ, lúc đó tình
hình sẽ thay đổi, các chính trị gia sẽ buộc phải cư xử cho tử tế.”
Đôi mắt ông khách sáng lên trước lời thử thách, sung sướng
vì lại có cơ hội tranh luận. “Xét về mặt lý thuyết thì đúng, tôi